Mô tả tổng quan chi trên
Chi trên liên quan với phía ngoài của phần dưới cổ và với thành ngực. Nó được nối từ phần thân cơ thể bởi các cơ và một khớp xương nhỏ giữa xương đòn và xương ức – khớp ức – đòn. Dựa trên vị trí của các khớp lớn và các xương thành phần, chi trên được chia thành các phần vai, cánh tay, cẳng tay và bàn tay (Hình 1A).

Vai là vùng chi trên nối với thân cơ thể (Hình 1B).
Cánh tay là phần chi trên nằm giữa vai và khớp khuỷu tay; cẳng tay là phần nằm giữa khớp khuỷu tay và khớp cổ tay; và bàn tay nằm ở phía xa của khớp cổ tay.
Nách, hố trụ và ống cổ tay là các khu vực chuyển tiếp đáng chú ý giữa các phần khác nhau của chi trên (Hình 2 – các bạn sửa “hố khuỷu” thành “hố trụ” trên hình nhé, mình ghi nhầm). Các cấu trúc quan trọng sẽ đi qua hoặc liên quan với mỗi trong số các vùng này.

Nách là một khu vực hình tháp không đều, được hình thành bởi các cơ và các xương của vai và mặt ngoài của thành ngực. Đỉnh nách hay khe nách sẽ mở trực tiếp vào bên trong phần dưới của cổ. Da của hõm nách hình thành nên nền nách. Tất cả các cấu trúc lớn đi giữa cổ và cánh tay sẽ đi qua nách.
Hố trụ là một vùng lõm hình tam giác, được hình thành bởi các cơ phía trước khớp khuỷu. Động mạch lớn, là động mạch cánh tay, từ cánh tay đến cẳng tay sẽ đi qua hố này, điều tương tự cũng xảy ra đối với một trong các dây thần kinh lớn của chi trên là dây thần kinh giữa.
Ống cổ tay là đường vào lòng bàn tay. Thành sau, thành ngoài và thành trong của ống cổ tay hình thành nên một cung, được tạo thành từ các xương cổ tay nhỏ ở vùng gần của bàn tay. Một dải mô liên kết dày, được gọi là mạc giữ gân cơ gấp, trải dài giữa hai bên của cung và hình thành nên thành trước của ống cổ tay. Dây thần kinh giữa và tất các các gân gấp dài đi từ cẳng tay đến các ngón tay của bàn tay sẽ đi qua ống cổ tay.
Chức năng của chi trên
Định vị cho bàn tay
Không giống như chi dưới, được sử dụng để nâng đỡ, ổn định tư thế và di chuyển, chi trên thì có tính linh động cao hơn trong việc định vị vị trí bàn tay trong không gian.
Vai được nối từ phần thân chủ yếu bởi các cơ và vì thế, vai có thể được vận động so với cơ thể. Sự trượt (đưa ra trước và đưa ra sau) và sự xoay của xương vai trên thành ngực sẽ làm thay đổi vị trí của khớp ổ chảo – xương cánh tay (khớp vai) (glenohumeral joint [shoulder joint]) và mở rộng tầm hoạt động của bàn tay (Hình 3). Khớp ổ chảo – xương cánh tay cho phép cánh tay di chuyển quanh 3 trục với tầm vận động rộng. Các vận động của cánh tay ở khớp này là gập, duỗi, dạng, khép, xoay trong, xoay ngoài và xoay vòng (Hình 4).


Các vận động chính ở khớp khuỷu (elbow joint) là gập và duỗi cẳng tay (Hình 5A). Ở đầu còn lại của cẳng tay, đầu xa của xương phía ngoài cẳng tay, là xương quay, sẽ có thể được lật qua đầu của xương lân cận bên trong, là xương trụ.

Bởi vì bàn tay được khớp với xương quay nên nó có thể được vận động một cách hiệu quả từ mặt trước bàn tay sang mặt sau bàn tay bằng cách đơn giản là bắt chéo đầu xa của xương quay qua xương trụ (Hình 5B). Vận động này, được gọi là vận động sấp bàn tay, xảy ra chủ yếu là ở cẳng tay. Vận động ngửa bàn tay sẽ giúp đưa tay về vị trí giải phẫu ban đầu.
Tại khớp cổ tay (wrist joint), bàn tay có thể được dạng, khép, gập, duỗi và xoay vòng (Hình 6). Những vận động này, kết hợp với những vận động của vai, cánh tay và cẳng tay, sẽ làm cho bàn tay có thể được định vị ở nhiều vị trí so với cơ thể.

Bàn tay đóng vai trò như một công cụ cơ học
Một trong những chức năng chính của bàn tay là cầm nắm và thao tác trên các vật thể. Cầm nắm các vật thể nhìn chung là liên quan đến việc gấp các ngón tay đối với ngón cái. Phụ thuộc vào kiểu cầm nắm, các cơ ở bàn tay thực hiện:
- Điều chỉnh các hoạt động của các gân dài xuất phát từ cẳng tay và bám vào các ngón tay của bàn tay.
- Tạo ra các sự kết hợp của các vận động khớp trong mỗi ngón tay mà không thể được tạo ra bởi các gân gấp dài và gân duỗi dài đến từ cẳng tay.
Bàn tay đóng vai trò như là một công cụ cảm giác
Bàn tay được sử dụng để phân biệt giữa các vật thể nhờ việc chạm vào chúng. Mặt da ở phía lòng của các ngón tay chứa một mật độ dày đặc các thụ cảm thể cảm giác soma. Ngoài ra, vỏ cảm giác của não thực hiện “thông dịch” thông tin từ bàn tay, đặc biệt là từ ngón cái, thì lớn hơn một cách không tương xứng so với nhiều vùng da khác.
Các thành phần của chi trên
Các xương và các khớp
Các xương của vai bao gồm xương vai, xương đòn và đầu gần của xương cánh tay (Hình 7).
Xương đòn khớp ở phía trong với cán xương ức và khớp ở phía ngoài với mỏm cùng vai của xương vai, thành phần mà vòng cung qua khớp giữa ổ chảo và đầu xương cánh tay (khớp ổ chảo – xương cánh tay).

Xương cánh tay là xương của cánh tay (Hình 7). Đầu xa của xương cánh tay khớp với các xương của cẳng tay tại khớp khuỷu, là một khớp bản lề (hinge joint) mà cho phép sự gập và duỗi của cẳng tay. Cẳng tay gồm 2 xương:
- Xương ngoài là xương quay
- Xương trong là xương trụ (Hình 7).
Tại khớp khuỷu, các đầu gần của xương quay và xương trụ khớp với nhau cũng như là với xương cánh tay.
Ngoài động tác gập và duỗi cẳng tay thì khớp khuỷu còn cho phép xương quay xoay trên xương cánh tay trong khi đang trượt trên trên đầu xương trụ trong các động tác sấp bàn tay và ngửa bàn tay.
Các phần xa của xương quay và xương trụ cũng khớp với nhau. Khớp này cho phép đầu xương quay lật từ phía ngoài sang phía bên trong của xương trụ trong suốt động tác sấp bàn tay.
Khớp cổ tay được hình thành giữa xương quay và các xương cổ tay của bàn tay và giữa đĩa khớp, ở phía xa của xương trụ, với các xương cổ tay.
Các xương của bàn tay bao gồm các xương cổ tay, các xương bàn tay và các xương ngón tay (Hình 7).
Năm ngón tay trong một bàn tay là ngón cái và các ngón trỏ, ngón giữa, ngón nhẫn và ngón út.
Các khớp giữa 8 xương cổ tay nhỏ chỉ cho phép các sự vận động rất hạn chế; do đó, các xương này hoạt động cùng với nhau như là một khối duy nhất.
Năm xương bàn tay, mỗi xương cho một ngón, là khung xương chủ yếu của bàn tay (Hình 7).
Khớp giữa xương bàn tay của ngón cái (xương bàn tay I) và một trong các xương cổ tay sẽ cho phép mức độ vận động lớn hơn so với vận động trượt giới hạn xảy ra ở các khớp cổ – bàn của các ngón tay khác.
Ở phía xa, đầu của các xương bàn tay II đến V (trừ ngón cái) được kết nối với nhau bởi các dây chằng chắc khỏe.
Thiếu đi sự kết nối bằng dây chằng giữa các xương bàn tay của ngón cái và ngón trỏ cùng với khớp yên ngựa hai trục (biaxial saddle joint) giữa xương bàn tay của ngón cái và các xương cổ tay làm cho ngón cái có mức độ tự do vận động nhiều hơn so với các ngón tay khác trong bàn tay.
Các xương của các ngón tay là các xương ngón tay (Hình 7). Ngón tay cái có hai xương ngón tay, trong khi các ngón tay còn lại, mỗi ngón sẽ có 3 xương ngón tay.
Các khớp bàn – ngón là các khớp lồi cầu hai trục (các khớp bầu dục) (biaxial condylar joints [ellipsoid joints]) cho phép các vận động gập, duỗi, dạng, khép và xoay vòng (Hình 8). Các vận động dạng và khép của các ngón tay được xác định nhờ tham chiếu đến một trục chạy qua chính giữa ngón tay giữa ở tư thế giải phẫu. Vì thế, ngón tay giữa có thể dạng cả vào trong hoặc ra ngoài và khép trở về trục trung tâm từ cả hai bên. Các khớp gian ngón chủ yếu là các khớp bản lề (hinge joints), chỉ cho phép sự gập và duỗi.

Các cơ
Một số cơ của vai như cơ thang, cơ nâng vai và các cơ trám sẽ nối xương vai và xương đòn với thân cơ thể. Các cơ khác giúp nối xương đòn, xương vai và thành cơ thể với đầu gần của xương cánh tay. Những cơ này bao gồm cơ ngực lớn, cơ ngực bé, cơ lưng rộng, cơ tròn lớn và cơ delta (Hình 9A, B). Quan trọng nhất trong số các cơ này là 4 cơ chóp xoay vai (rotator cuff) – cơ dưới vai, cơ trên gai, cơ dưới gai và cơ tròn bé – giúp nối xương vai với xương cánh tay và cung cấp sự hỗ trợ cho khớp ổ chảo – xương cánh tay (Hình 9C).

Các cơ ở cánh tay và cẳng tay được phân thành khoang trước (khoang cơ gấp) và khoang sau (khoang cơ duỗi) bởi các lớp mạc, các xương và các dây chằng (Hình 10).

Khoang trước cánh tay nằm ở phía trước và được phân tách với các cơ của khoang sau bởi xương cánh tay và bởi các vách gian cơ trong và ngoài. Những vách gian cơ này thì liên tục với mạc sâu bao phủ cánh tay và bám vào hai bên của xương cánh tay.
Trong cẳng tay, các khoang trước và khoang sau được phân tách với nhau bởi một vách gian cơ ngoài, xương quay, xương trụ và một màng gian cốt (là màng nối giữa hai mặt kế cận của xương quay và xương trụ) (Hình 10).
Các cơ trong cánh tay đóng vai trò chủ yếu là giúp vận động cẳng tay ở khớp khuỷu trong khi các cơ trong cẳng tay thực hiện chức năng chủ yếu là vận động bàn tay ở khớp cổ tay và các ngón tay.
Các cơ nằm hoàn toàn trong bàn tay, được gọi là các cơ nội tại, giúp tạo ra các vận động tinh vi của các ngón tay trên bàn tay và giúp chỉnh sửa các lực được gây ra bởi các gân vào trong các ngón tay từ cẳng tay. Trong số các cơ nội tại của bàn tay, có 3 cơ mô cái (thenar muscles) giúp hình thành nên một ụ mô mềm, được gọi là mô cái (thenar eminence), nằm ở phía mặt lòng của xương bàn tay I. Các cơ mô cái cho phép ngón tay cái vận động một cách tự do hơn so với các ngón tay khác.
Các bạn xem các bài viết mới trên trang Facebook tại đây nhé: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn xem phần tiếp theo tại đây nhé: https://docsachxyz.com/lien-quan-va-cac-dac-diem-quan-trong-cua-chi-tren/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!