Cơ thể người có khả năng đề kháng lại hầu như tất cả các loại vi sinh vật hay các chất độc mà có khuynh hướng gây ra tổn thương đối với các mô và các cơ quan. Khả năng này được gọi là miễn dịch (immunity). Hầu hết khả năng miễn dịch là miễn dịch thu được (miễn dịch tập nhiễm) (acquired immunity) mà không phát triển cho đến lúc sau khi cơ thể bị tấn công lần đầu tiên bởi vi khuẩn, vi rút, hay chất độc; thông thường, vài tuần hoặc vài tháng được cần đến để cho miễn dịch phát triển. Một thành phần khác của miễn dịch mà do các quá trình chung, chứ không phải từ các quá trình hướng đến các vi sinh vật gây bệnh cụ thể, được gọi là miễn dịch bẩm sinh (innate immunity), mà bao gồm các khía cạnh sau đây:
1. Sự thực bào các vi khuẩn và các tác tác nhân xâm nhập khác bởi các tế bào bạch cầu và các tế bào của hệ thống đại thực bào mô, như được mô tả trong loạt bài viết trước.
2. Sự phá hủy các vi sinh vật được nuốt bởi các sự bài tiết acid của dạ dày và các enzyme tiêu hóa.
3. Sự đề kháng tự nhiên của da đối với sự xâm nhập bởi các vi sinh vật.
4. Sự có mặt trong máu của các chất hóa học và các tế bào nhất định mà bám vào các vi sinh vật ngoại lai hoặc các chất độc và phá hủy chúng. Một số trong số này là: (1) lysozyme, một polysaccharide phân giải chất nhầy mà tấn công các vi khuẩn và làm cho chúng tan ra; (2) các polypeptides base (basic polypeptides), mà phản ứng với và bất hoạt các loại vi khuẩn gram dương nhất định; (3) phức hợp bổ thể (complement complex), được mô tả sau, một hệ thống của khoảng 20 proteins mà có thể được hoạt hóa theo nhiều cách khác nhau để phá hủy các vi khuẩn; và (4) các tế bào lympho diệt tự nhiên (natural killer lymphocytes) mà có thể nhận ra và phá hủy các tế bào ngoại lại, các tế bào khối u và thậm chí các tế bào nhiễm trùng.
Miễn dịch bẩm sinh này khiến cho cơ thể người đề kháng lại các bệnh tật như các sự nhiễm vi rút gây bại liệt của các động vật, tả heo, tả trâu bò và bệnh Care – một bệnh do vi rút mà giết chết một phần trăm chó lớn mắc phải nó. Tương tự, nhiều động vật thì đề kháng hoặc thậm chí miễn dịch với nhiều bệnh của người như bệnh bại liệt (viêm tủy xám), quai bị, tả người, sởi và giang mai, mà gây tổn thương nặng hoặc thậm chí gây chết người.
Miễn dịch thu được (miễn dịch đáp ứng)
Ngoài miễn dịch bẩm sinh nói chung, cơ thể người có khả năng phát triển miễn dịch đặc hiệu cực kỳ mạnh mẽ chống lại các tác nhân xâm nhập riêng rẽ như các vi khuẩn, vi rút, chất độc gây chết người và thậm chí cả các mô ngoại lai từ các động vật khác. Khả năng này được gọi là miễn dịch thu được (acquired immunity) hay miễn dịch đáp ứng (adaptive immunity). Miễn dịch thu được được gây ra bởi một hệ thống miễn dịch đặc hiệu mà hình thành nên các kháng thể và/hoặc các tế bào lympho hoạt hóa mà tấn công và phá hủy các vi sinh vật hoặc chất độc xâm nhập.
Miễn dịch thu được thường có thể đem lại tác động bảo vệ cực kỳ lớn. Ví dụ, các chất độc nhất định như chất độc botulinum gây bại liệt hay chất độc uốn ván của bệnh uốn ván, có thể được bảo vệ khỏi ở các liều lượng cao đến 100,000 lần lượng mà sẽ gây tử vong nếu như không có miễn dịch. Chính vì vậy mà quá trình mà được được gọi là tiêm chủng (immunization) rất quan trọng trong việc bảo vệ con người chống lại bệnh tật và các chất độc, như được giải thích sau trong loạt bài viết này.
Các loại miễn dịch thu được cơ bản – qua trung gian thể dịch và tế bào
Hai loại cơ bản nhưng liên kết chặt chẽ của miễn dịch thu được xuất hiện trong cơ thể. Ở một trong số các loại này, cơ thể phát triển các kháng thể tuần hoàn, mà là các phân tử globulin trong huyết tương máu có khả năng tấn công tác nhân xâm nhập. Loại miễn dịch này được gọi là miễn dịch dịch thể (humoral immunity) hay miễn dịch tế bào B (B-cell immunity) bởi vì các tế bào lympho B tạo ra các kháng thể. Loại miễn dịch thu được thứ hai được đạt được thông qua sự hình thành của các số lượng lớn các tế bào lympho T hoạt hóa, mà được tạo ra một cách đặc hiệu trong các hạch bạch huyết, làm phá hủy tác nhân ngoại lai. Loại miễn dịch này được gọi là miễn dịch qua trung gian tế bào (cell-mediated immunity) hay miễn dịch tế bào T (T-cell immunity) bởi vì các tế bào lympho hoạt hóa là các tế bào lympho T. Cả các kháng thể và các tế bào lympho T hoạt hóa đều được hình thành trong các mô lympho của cơ thể.
Cả hai loại miễn dịch thu được đều được khởi động bởi các kháng nguyên
Bởi vì miễn dịch thu được không phát triển cho đến sau khi có sự xâm nhập bởi một vi sinh vật hay chất độc ngoại lại, rõ ràng là cơ thể phải có một số cơ chế nhận diện sự xâm nhập này. Mỗi chất độc hay vi sinh vật thì hầu như luôn luôn chứa một hoặc nhiều các hợp chất hóa học đặc hiệu mà về thành phần của nó mà khác so với tất cả các hợp chất khác. Nhìn chung, đây là các proteins hay các polysaccharides lớn mà khởi động miễn dịch thu được; các chất này được gọi là các kháng nguyên (antigens) (các thành phần tạo kháng thể).
Đối với một chất có tính kháng nguyên, nó thường phải có một trọng lượng phân tử cao là 8000 hoặc hơn. Hơn thế nữa, quá trình của tính kháng nguyên thường phụ thuộc vào các nhóm phân tử xuất hiện lại thường xuyên, được gọi là epitopes, trên bề mặt của phân tử lớn. Yếu tố này cũng giải thích tại sao các proteins và các polysaccharides lớn thì hầu như luôn luôn có tính kháng nguyên bởi vì cả hai chất này đều có đặc điểm hóa học lập thể này.
Các tế bào lympho chịu trách nhiệm cho miễn dịch thu được
Miễn dịch thu được là sản phẩm của các tế bào lympho của cơ thể. Ở những người mà có một sự thiếu hụt di truyền của các tế bào lympho hoặc các tế bào lympho của người đó bị phá hủy bởi phóng xạ hay các chất hóa học, thì không có miễn dịch thu được có thể phát triển. Trong vòng nhiều ngày sau sinh, một người như thế sẽ chết do nhiễm khuẩn cấp tính nếu như không được điều trị bởi các phương pháp tích cực. Vì thế, rõ ràng rằng là các tế bào lympho thì cần thiết cho sự sống của con người.
Các tế bào lympho nằm nhiều nhất trong các hạch bạch huyết nhưng cũng được tìm thấy trong các mô bạch huyết chuyên biệt như lách, các vùng dưới niêm mạc của đường tiêu hóa, tuyến ức và tủy xương. Mô bạch huyết được phân bố một cách thuận lợi trong cơ thể để ngăn chặn các vi sinh vật hoặc các chất độc xâm nhập trước khi chúng có thể lan quá rộng.
Trong hầu hết các trường hợp, tác nhân xâm nhập đầu tiên đi vào trong dịch mô và sau đó được mang đi bởi các mạch bạch huyết đến hạch bạch huyết hoặc các mô bạch huyết khác. Ví dụ, mô bạch huyết của các thành ống tiêu hóa được tiếp xúc một cách ngay lập tức với các kháng nguyên xâm nhập từ ruột. Mô bạch huyết của cổ họng (bao gồm các hạch amidan và VA) nằm ở các vị trí phù hợp để ngăn chặn các kháng nguyên mà đi vào bởi đường hô hấp trên. Mô bạch huyết trong các hạch bạch huyết được tiếp xúc với các kháng nguyên mà xâm nhập các mô ngoại vi của cơ thể, và mô bạch huyết của lách, tuyến ức và tủy xương đóng vai trò đặc hiệu trong việc ngăn chặn các tác nhân có tính kháng nguyên thành công trong việc đến máu tuần hoàn.
Các tế bào lympho T và B thúc đẩy miễn dịch dịch thể và qua trung gian tế bào. Mặc dù hầu hết các tế bào lympho trong mô lympho bình thường trông giống nhau khi nghiên cứu dưới kính hiển vi nhưng các tế bào này được phân chia một cách riêng biệt thành hai loại chính. Một trong số các loại này, là các tế bào lympho T, chịu trách nhiệm cho sự hình thành các tế bào lympho hoạt hóa mà cung cấp miễn dịch qua trung gian tế bào và loại tế bào khác, là các tế bào lympho B, chịu trách nhiệm cho sự hình thành của các kháng thể mà cung cấp miễn dịch dịch thể.
Cả hai loại tế bào lympho đều có nguồn gốc ban đầu trong thai nhi từ các tế bào gốc tạo máu đa năng (multipotent hematopoietic stem cells) mà hình thành nên các tế bào tiền thân lympho chung (common lymphoid progenitor cells) như là một trong số các tế bào con quan trọng nhất khi chúng biệt hóa. Hầu như tất cả các tế bào lympho mà được hình thành cuối cùng sẽ đến mô bạch huyết (mô lympho), nhưng trước khi làm như thế, chúng được biệt hóa hay được tiền xử lý nhiều hơn theo các cách sau.
Các tế bào tiền thân lympho mà cuối cùng hình thành nên các tế bào lympho T hoạt hóa đầu tiên di cư đến và được tiền xử lý trong tuyến ức; vì thế, chúng được gọi là các tế bào lympho T để ký hiệu cho vai trò của tuyến ức (thymus gland). Chúng chịu trách nhiệm cho miễn dịch qua trung gian tế bào.
Các tế bào lympho còn lại – các tế bào lympho B mà có vai trò hình thành nên các kháng thể – được tiền xử lý trong gan ở giữa đời sống thai nhi và trong tủy xương ở cuối đời sống thai nhi và sau sinh. Loại tế bào này đầu tiên được phát hiện ở chim mà có một cơ quan tiền xử lý đặc hiệu được gọi là túi Fabricius (bursa of Fabricius). Vì lý do này, các tế bào lympho này được gọi là các tế bào lympho B để có ký hiệu cho vai trò của túi và chúng chịu trách nhiệm cho miễn dịch dịch thể. Hình 1 cho thấy hai hệ thống lympho bào đối với sự hình thành lần lượt của (1) các tế bào lympho hoạt hóa và (2) các kháng thể.

Sự tiền xử lý của các tế bào lympho T và B
Mặc dù tất cả các tế bào lympho trong cơ thể có nguồn gốc từ các tế bào gốc biệt hóa lympho bào (lymphocyte-committed stem cells) của thai nhi, nhưng các tế bào này không có khả năng hình thành nên các tế bào lympho hoạt hóa hoặc các kháng thể một cách trực tiếp. Trước khi chúng có thể thực hiện chức năng như vậy thì chúng phải được biệt hóa nhiều hơn trong các khu vực xử lý thích hợp, như sau.
Tuyến ức tiền xử lý các tế bào lympho T. Các tế bào lympho T, sau khi sinh ra trong tủy xương, đầu tiên di cư đến tuyến ức. Ở đây, chúng nhanh chóng phân chia và cùng lúc đó, phát triển cực kỳ đa dạng để phản ứng chống lại các kháng nguyên đặc hiệu khác nhau. Nghĩa là, một tế bào lympho tuyến ức phát triển tính phản ứng đặc hiệu chống lại một kháng nguyên và sau đó tế bào lympho tiếp theo phát triển tính đặc hiệu chống lại một kháng nguyên khác. Quá trình này tiếp tục cho đến khi có hàng ngàn loại tế bào lympho tuyến ức khác nhau với các tính phản ứng đặc hiệu chống lại hàng ngàn kháng nguyên khác nhau. Các loại tế bào lympho T tiền xử lý khác nhau này bây giờ rời tuyến úc và lan rộng thông qua máu trên khắp cơ thể để cư trú trong mô bạch huyết ở mọi nơi.
Tuyến ức cũng đảm bảo rằng bất cứ tế bào lympho T nào mà rời tuyến ức sẽ không phản ứng chống lại các proteins và các kháng nguyên khác nhau mà xuất hiện trong chính các mô của cơ thể; nếu không, các tế bào lympho T sẽ gây tử vong đối chính cơ thể chỉ trong một vài ngày. Tuyến ức chọn các tế bào lympho T nào sẽ được giải phóng đầu tiên bằng cách trộn chúng với hầu như tất cả các tự kháng nguyên (self-antigens) đặc hiệu từ các mô của cơ thể. Nếu như các tế bào lympho T phản ứng thì nó sẽ bị phá hủy và thực bào thay vì được giải phóng, điều mà xảy ra ở lên đến 90% các tế bào. Vì thế, chỉ các tế bào mà cuối cùng được giải phóng là những tế bào mà không phản ứng chống lại chính các kháng nguyên của cơ thể – chúng chỉ phản ứng chống lại các kháng nguyên từ nguồn bên ngoài, như từ một chất độc của vi khuẩn hoặc thậm chí là mô được cấy từ một người khác.
Hầu hết quá trình tiền xử lý của các tế bào lympho T trong tuyến ức diễn ra ngắn trước sự ra đời của một đứa trẻ và trong một vài tháng sau khi sinh. Qua khỏi khoảng thời gian này, sự loại bỏ tuyến ức làm suy giảm (nhưng không loại bỏ) hệ thống miễn dịch tế bào lympho T. Tuy nhiên, sự loại bỏ tuyến ức một vài tháng trước khi sinh có thể ngăn cản sự phát triển của hệ thống miễn dịch qua trung gian tế bào, bao gồm sự loại thải các cơ quan ghép.
Gan và tủy xương tiền xử lý các tế bào lympho B. Ở người, các tế bào lympho B được tiền xử lý trong gan trong suốt thời kỳ giữa của đời sống thai nhi và tủy xương trong suốt thời kỳ cuối của đời sống thai nhi và sau khi sinh. Các tế bào lympho B thì khác so với các tế bào lympho T theo hai phương diện:
1. Thay vì toàn bộ tế bào phát triển tính phản ứng chống lại kháng nguyên, như xảy ra đối với các tế bào lympho T thì các tế bào lympho B bài tiết một cách chủ động các kháng thể (antibodies) mà là các tác nhân phản ứng. Các tác nhân này là các proteins lớn mà có khả năng kết hợp với và phá hủy chất có tính kháng nguyên, được giải thích ở phần khác trong loạt bài viết này và trong loạt bài viết trước.
2. Các tế bào lympho B thậm chí có tính đa dạng lớn hơn so với các tế bào lympho T, vì thế, hình thành nên hàng triệu kháng thể của lympho bào B với các tính phản ứng đặc hiệu khác nhau. Sau quá trình tiền xử lý, các tế bào lympho B, giống như các tế bào lympho T, di cư đến mô lympho trên khắp cơ thể, nơi mà chúng cư trú gần nhưng hơi tách biệt so với các khu vực của tế bào lympho T.
Các tế bào lympho T và các kháng thể của lympho bào B phản ứng chống lại các kháng nguyên đặc hiệu – vai trò của các cụm lympho bào
Khi các kháng nguyên đặc hiệu tiếp xúc với các tế bào lympho T và B trong mô bạch huyết, một số tế bào lympho T trở nên hoạt hóa để hình thành nên các tế bào T hoạt hóa và một số các tế bào lympho B trở nên hoạt hóa để hình thành nên các kháng thể. Các tế bào T hoạt hóa và các kháng thể, cuối cùng, phản ứng có tính đặc hiệu cao chống lại các loại kháng nguyên nhất định mà khởi động sự phát triển của chúng. Cơ chế của tính đặc hiệu này được mô tả tiếp theo đây.
Hàng triệu loại lympho bào đặc hiệu được tích trữ trong mô lympho. Hàng triệu các loại tế bào lympho B tiền dạng và các tế bào lympho T tiền dạng có khả năng hình thành nên các loại kháng thể hoặc các tế bào T đặc hiệu cao được tích trữ trong mô bạch huyết, như được giải thích trước đây. Mỗi trong số các tế bào lympho hình thành từ trước này có khả năng hình thành chỉ một loại kháng thể hoặc một loại tế bào T với tính đặc hiệu duy nhất, và chỉ loại kháng nguyên đặc hiệu mới có thể hoạt hóa nó. Một khi tế bào lympho đặc hiệu được hoạt hóa bởi kháng nguyên của nó thì nó sản sinh rất kinh khủng, hình thành nên các số lượng khổng lồ của các tế bào lympho nhân lên (Hình 2). Nếu như nó là một tế bào lympho B thì dòng dõi của nó cuối cùng sẽ bài tiết các loại kháng thể đặc hiệu và sau đó tuần hoàn trên khắp cơ thể. Nếu như nó là một tế bào lympho T, dòng dõi của nó là các tế bào T đã mẫn cảm đặc hiệu mà được giải phóng vào trong dịch bạch huyết, được mang vào trong máu và sau đó tuần hoàn qua tất cả các dịch mô và quay trở lại vào trong dịch bạch huyết, đôi khi tuần hoàn lặp đi lặp lại trong vòng tuần hoàn này trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.

Tất cả các tế bào lympho khác nhau mà có khả năng hình thành một kháng thể hoặc tế bào T đặc hiệu được gọi là một cụm lympho bào (clone of lymphocytes). Nghĩa là, các tế bào lympho trong mỗi cụm thì giống nhau, mà có nguồn gốc ban đầu từ một hoặc một số các tế bào lympho đầu tiên thuộc loại chuyên biệt của nó.
Nguồn gốc của nhiều cụm lympho bào
Chỉ vài trăm đến vài ngàn mã di truyền cho hàng triệu các loại kháng thể và các tế bào lympho T khác nhau. Ban đầu, cách mà từ số ít gene có thể mã hóa cho hàng triệu các tính đặc hiệu khác nhau của các kháng thể hay các tế bào T được tạo ra bởi mô lympho là một bí ẩn. Bí ẩn này bây giờ đã được giải đáp.
Toàn bộ gene cho sự hình thành mỗi loại tế bào T hoặc B thì không bao giờ xuất hiện trong các tế bào gốc ban đầu mà từ đó các tế bào miễn dịch chức năng được hình thành. Thay vào đó, chỉ có các đoạn gene – thực chất, là hàng trăm các đoạn gene như vậy – mà không phải là genes hoàn chỉnh. Trong suốt quá trình tiền xử lý của các tế bào lympho B và T tương ứng, các đoạn gene này trở nên trộn lẫn với nhau theo các tổ hợp ngẫu nhiên, cuối cùng hình thành nên genes hoàn chỉnh.
Bởi vì có vài trăm loại đoạn gene, cũng như là hàng triệu các tổ hợp khác nhau mà trong đó các đoạn gene có thể được sắp xếp trong một loại tế bào, nên chúng ta có thể hiểu được hàng triệu loại gene tế bào khác nhau có thể xuất hiện. Đối với mỗi lympho bào T hay B mà cuối cùng được hình thành, các mã cấu trúc gene chỉ cho một tính đặc hiệu kháng nguyên đơn duy nhất. Các tế bào trưởng thành này sau đó trở thành các tế bào T và B có tính đặc hiệu cao mà lan rộng đến và cư trú ở các mô lympho.
Cơ chế hoạt họa các cụm lympho bào
Mỗi cụm lympho bào thì chỉ đáp ứng với một loại kháng nguyên đơn (hoặc với một vài kháng nguyên tương tự mà có gần như cùng các đặc điểm hóa học lập thể). Nguyên nhân cho điều này là như sau. Trong trường hợp của các tế bào lympho B, mỗi trong số này có trên bề mặt tế bào của nó khoảng 100,000 phân tử kháng thể mà sẽ phản ứng với tính đặc hiệu cao với chỉ một loại kháng nguyên. Vì thế, khi kháng nguyên thích hợp đi kèm, nó ngay lập tức bám vào kháng thể trong màng tế bào; điều này dẫn đến quá trình hoạt hóa được mô tả chi tiết hơn trong phần tiếp theo. Trong trường hợp của các tế bào lympho T, các phân tử tương tự với các kháng thể, được gọi là các proteins thụ cảm thể bề mặt (surface receptor proteins) (hay các thụ cảm thể tế bào T [T-cell receptors]), nằm trên bề mặt của màng tế bào T và các proteins này cũng có tính đặc hiệu cao cho một kháng nguyên hoạt hóa đặc hiệu. Vì thế, một kháng nguyên chỉ kích thích các tế bào mà có các thụ cảm thể bổ sung cho kháng nguyên và đã biệt hóa để đáp ứng với nó.
Vai trò của các đại thực bào trong quá trình hoạt hóa. Bên cạnh các tế bào lympho trong mô lympho, thực chất có hàng triệu các đại thực bào cũng xuất hiện trong cùng một mô. Các đại thực bào này lót các xoang của các hạch lympho, lách và các mô lympho khác và chúng nằm trong sự tiếp giáp với nhiều tế bào lympho của hạch. Hầu hết các vi sinh vật xâm nhập đầu tiên được thực bào và bị tiêu hóa một phần bởi các đại thực bào và các sản phẩm có tính kháng nguyên được giải phóng vào trong bào tương đại thực bào. Các đại thực bào sau đó đưa các kháng nguyên này bởi các liên hệ gian bào một cách trực tiếp đến các tế bào lympho, vì thế, dẫn đến sự hoạt hóa của các cụm lympho bào đặc hiệu. Ngoài ra, các đại thực bào, bài tiết một chất hoạt hóa đặc hiệu, là interleukin-1, mà làm tăng cường hơn nữa sự tăng trưởng và sản sinh của các tế bào lympho đặc hiệu.
Vai trò của các tế bào T trong sự hoạt hóa của các tế bào B. Hầu hết các kháng nguyên hoạt hóa cả các tế bào lympho T và các tế bào lympho B cùng một lúc. Một số trong số các tế bào T mà được hình thành, được gọi là các tế bào T trợ giúp (T-helper cells), bài tiết các chất đặc hiệu (được gọi chung là các lymphokines) mà hoạt hóa các tế bào lympho B đặc hiệu. Trong thực tế, nếu như không có sự trợ giúp của các tế bào T trợ giúp thì lượng các kháng thể được hình thành bởi các tế bào lympho B thường nhỏ. Chúng ta sẽ bàn đến mối liên hệ phối hợp này giữa các tế bào T trợ giúp và các tế bào B sau khi mô tả các cơ chế của hệ thống miễn dịch tế bào T.
Các thuộc tính đặc hiệu của hệ thống lympho bào B – miễn dịch dịch thể và các kháng thể
Sự hình thành kháng thể bởi các tương bào. Trước khi tiếp xúc với một kháng nguyên đặc hiệu, các cụm tế bào lympho B vẫn không hoạt động trong mô lympho. Khi một kháng nguyên ngoại lại đi vào, các đại thực bào trong mô lympho thực bào kháng nguyên và sau đó trình diện nó với các tế bào lympho B lân cận. Ngoài ra, kháng nguyên được trình diện với các tế bào T cùng lúc và các tế bào T trợ giúp được hình thành. Các tế bào trợ giúp này cũng đóng góp vào sự hoạt hóa cực kỳ mạnh của các tế bào lympho B, như được bàn đến đến sau.
Các tế bào lympho B đặc hiệu đối với kháng nguyên ngay lập tức phình to và có hình dạng của nguyên bào lympho (lymphoblast).
Một số trong số các nguyên bào lympho biệt hóa nhiều hơn để hình thành nên nguyên tương bào (plasmablasts), mà là các tiền thân của các tương bào. Trong các nguyên tương bào, bào tương mở rộng và lưới nội chất hạt tăng sinh nhiều. Nguyên tương bào sau đó bắt đầu phân chia ở một tốc độ là khoảng một lần mỗi 10 giờ trong khoảng 9 lần phân bào, cho ra tổng cộng khoảng 500 tế bào cho mỗi nguyên tương bào trong 4 ngày. Tương bào trưởng thành sau đó tạo ra các kháng thể gamma globulin ở tốc độ cực kỳ nhanh – khoảng 2000 phân tử mỗi giây cho mỗi tương bào. Cuối cùng, các kháng thể được bài tiết vào trong dịch bạch huyết và được mang đến máu tuần hoàn. Quá trình này tiếp tục trong vài ngày hoặc vài tuần cho đến khi, cuối cùng, sự kiệt quệ và chết của các tương bào diễn ra.
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!