Vùng vai sau sẽ nằm ở phía sau của xương vai và nằm bên dưới cơ thang và cơ delta (Hình 1 và Bảng 2). Vùng vai sau bao gồm 4 cơ, các cơ này đi giữa xương vai và đầu gần của xương cánh tay: cơ trên gai, cơ dưới gai, cơ tròn nhỏ và cơ tròn lớn.


Vùng vai sau còn chứa một phần của một cơ khác nữa, đó là đầu dài của cơ tam đầu cánh tay, cơ này đi giữa xương vai và đầu gần của xương cánh tay. Cơ này cùng với các cơ khác của vùng và xương cánh tay tham gia vào hình thành nên một số các khoang (lỗ) mà qua đó các dây thần kinh và các mạch máu đi vào và đi ra khỏi vùng vai sau.
Các cơ trên gai, dưới gai và tròn nhỏ là các thành phần của khối cơ chóp xoay, đây là nhóm cơ giúp ổn định khớp ổ chảo – xương cánh tay.
Các cơ
Cơ trên gai và cơ dưới gai
Các cơ trên gai (supraspinatus) và dưới gai (infraspinatus) xuất phát từ 2 hố lớn, một là ở phía trên và một là ở phía dưới gai xương vai, trên mặt sau xương vai (Hình 1). Chúng hình thành nên các gân mà bám tận vào củ lớn xương cánh tay.
- Gân của cơ trên gai đi dưới mỏm cùng vai, nơi mà nó được phân tách với xương vai bởi một túi hoạt dịch dưới mỏm cùng vai, rồi đi qua trên khớp ổ chảo – xương cánh tay và bám tận vào diện trên của củ lớn xương cánh tay.
- Gân của cơ dưới gai đi ra phía sau khớp ổ chảo – xương cánh tay và bám tận vào diện giữa của củ lớn xương cánh tay.
Cơ trên gai tham gia vào động tác dạng cánh tay. Cơ dưới gai giúp xoay ngoài xương cánh tay.
Cơ tròn lớn và cơ tròn bé
Cơ tròn bé (teres minor) là một cơ dạng dây xuất phát từ một vùng dẹt của xương vai ngay bên cạnh bờ ngoài xương vai, bên dưới củ dưới ổ chảo (Hình 1). Gân của nó bám tận lên diện dưới của củ lớn xương cánh tay. Cơ tròn bé giúp xoay ngoài xương cánh tay và là thành phần của nhóm cơ chóp xoay.
Cơ tròn lớn (teres major) xuất phát từ một vùng hình bầu dục lớn ở mặt sau của góc dưới xương vai (Hình 1). Cơ dạng dây rộng này đi lên phía trên và ra ngoài và kết thúc ở dạng một gân dẹt bám vào môi trong của rãnh gian củ trên mặt trước của xương cánh tay. Cơ tròn lớn giúp xoay trong và duỗi xương cánh tay.
Đầu dài của cơ tam đầu cánh tay
Đầu dài của cơ tam đầu cánh tay (long head of the triceps brachii) xuất phát từ củ dưới ổ chảo và đi hơi thẳng đứng xuống dưới cánh tay để bám tận trên mỏm khuỷu của xương trụ cùng với các đầu trong và đầu ngoài của cơ này (Hình 1).
Cơ tam đầu cánh tay là cơ duỗi cẳng tay chính tại khớp khuỷu. Bởi vì đầu dài của cơ tam đầu cánh tay đi qua khớp ổ chảo – xương cánh tay nên nó cũng có thể giúp duỗi và khép xương cánh tay.
Tầm quan trọng của cơ tam đầu cánh tay trong vùng vai sau là chặng đi thẳng đứng giữa cơ tròn nhỏ và cơ tròn lớn, cùng với các cơ này và xương cánh tay, hình thành nên các khoang (lỗ) mà qua đó các dây thần kinh và mạch máu đi giữa các vùng.
Các đường vào vùng vai sau
Lỗ trên vai
Lỗ trên vai là con đường mà qua đó các cấu trúc sẽ đi giữa nền cổ và vùng vai sau (Hình 1). Nó được hình thành bởi khuyết trên vai của xương vai và dây chằng vai ngang trên (dây chằng trên vai), dây chằng này giúp chuyển khuyết trên vai thành một lỗ.
Dây thần kinh trên vai đi qua lỗ trên vai; động mạch trên vai và tĩnh mạch trên vai đi theo chặng tương tự với dây thần kinh trên vai, nhưng bình thường thì nó sẽ đi ngay trên dây chằng vai ngang trên và không đi qua lỗ trên vai (Hình 2).

Lỗ tứ giác
Lỗ tứ giác giúp tạo ra lối đi cho các dây thần kinh và mạch máu đi giữa các vùng trước (vùng nách) và vùng vai sau (Hình 1). Trong vùng vai sau, các giới hạn của lỗ tứ giác được hình thành bởi:
- bờ dưới của cơ tròn bé
- cổ phẫu thuật của xương cánh tay
- bờ trên của cơ tròn lớn
- bờ ngoài của đầu dài cơ tam đầu cánh tay
Dây thần kinh nách và động mạch và tĩnh mạch mũ cánh tay sau sẽ đi qua lỗ này (Hình 2).
Lỗ tam giác (thứ nhất)
Lỗ tam giác (thứ nhất) là một vùng liên hệ giữa vùng nách và vùng vai sau (Hình 1). Khi nhìn từ vùng vai sau thì lỗ tam giác được hình thành bởi:
- bờ trong của đầu dài cơ tam đầu cánh tay
- bờ trên của cơ tròn lớn
- bờ dưới của cơ tròn bé
Động mạch và tĩnh mạch mũ vai đi qua lỗ trống này (Hình 2).
Lỗ tam giác (thứ hai)
Lỗ tam giác (thứ hai) được hình thành bởi:
- bờ ngoài của đầu dài cơ tam đầu cánh tay
- thân xương cánh tay
- bờ dưới của cơ tròn lớn (Hình 1).
Bởi vì lỗ này thì nằm phía dưới bờ dưới của cơ tròn lớn, là giới hạn dưới của vùng nách cho nên lỗ tam giác này đóng vai trò như là một đường đi giữa khoang trước và khoang sau của cánh tay và giữa khoang sau cánh tay và vùng nách. Dây thần kinh quay, động mạch cánh tay sâu (profunda brachii artery hay deep artery of arm) và các tĩnh mạch liên quan đi qua khe này (Hình 2).
Các dây thần kinh
Hai dây thần kinh chính của vùng sau vai là dây thần kinh trên vai và dây thần kinh nách, cả hai dây thần kinh này đều xuất phát từ đám rối cánh tay trong vùng nách (Hình 2).
Dây thần kinh trên vai
Dây thần kinh trên vai (suprascapular nerve) xuất phát ở nền cổ từ thân trên của đám rối cánh tay. Nó đi ra phía sau ngoài từ chỗ xuất phát, qua lỗ trên vai để đến vùng vai sau, nơi mà nó nằm trên mặt phẳng giữa xương và cơ (Hình 2).
Dây thần kinh này chi phối cho cơ trên gai và sau đó đi qua khuyết vai lớn (khuyết gai vai – ổ chảo) nằm giữa gốc của gai xương vai và ổ chảo để tận cùng ở cơ dưới gai và đồng thời cũng chi phối cho cơ này.
Nhìn chung, dây thần kinh trên vai không có nhánh bì nào.
Dây thần kinh nách
Dây thần kinh nách (axillary nerve) xuất phát từ bó sau của đám rối cánh tay. Nó đi ra khỏi vùng nách bằng cách đi qua lỗ tứ giác ở thành sau của vùng nách và đi vào vùng vai sau (Hình 2). Cùng với động mạch và tĩnh mạch mũ cánh tay sau, dây thần kinh này có liên quan trực tiếp với mặt sau của cổ phẫu thuật xương cánh tay.
Dây thần kinh nách chi phối cho cơ delta và cơ tròn bé. Hơn thế nữa, nó có một nhánh bì là dây thần kinh bì trên ngoài của cánh tay, dây thần kinh này mang tín hiệu cảm giác chung của vùng da ở phía trên phần dưới cơ delta.
Các động mạch và tĩnh mạch
Ba động mạch chính được tìm thấy ở vùng vai sau: động mạch trên vai, động mạch mũ cánh tay sau và động mạch mũ vai. Những động mạch này đóng góp vào trong một hệ thống mạch máu thông nối với nhau quanh xương vai (Hình 3).

Động mạch trên vai
Động mạch trên vai (suprascapular artery) xuất phát ở nền cổ như là một nhánh của thân giáp – cổ, thân này vốn là một nhánh chính của động mạch dưới đòn (Hình 2 và 3). Mạch máu này cũng có thể xuất phát trực tiếp từ phần thứ ba của động mạch dưới đòn.
Động mạch trên vai bình thường sẽ đi vào vùng vai sau ở phía trên lỗ trên vai, ngược lại, dây thần kinh sẽ đi qua lỗ trên vai. Trong vùng vai sau, mạch máu đi cùng với dây thần kinh trên vai.
Ngoài việc cấp máu cho cơ trên gai và cơ dưới gai thì động mạch trên vai cũng đóng góp các nhánh đến nhiều cấu trúc trên suốt đường đi của nó.
Động mạch mũ cánh tay sau
Động mạch mũ cánh tay sau (posterior circumflex humeral artery) xuất phát từ phần thứ ba của động mạch nách ở vùng nách (Hình 2 và Hình 3).
Động mạch mũ cánh tay sau và thần kinh nách rời vùng nách qua lỗ tứ giác ở thành sau và đi vào trong vùng vai sau. Mạch máu này cấp máu cho các cơ và khớp ổ chảo – xương cánh tay liên quan.
Động mạch mũ vai
Động mạch mũ vai (circumflex scapular artery) là một nhánh của động mạch dưới vai, động mạch này cũng xuất phát từ phần thứ ba của động mạch nách ở vùng nách (Hình 2 và Hình 3). Động mạch mũ vai rời vùng nách qua một lỗ tam giác và đi vào trong vùng vai sau, đi qua nguyên ủy của cơ tròn bé và hình thành nên các kết nối thông nối với các động mạch khác ở trong vùng.
Các tĩnh mạch
Các tĩnh mạch ở vùng vai sau nhìn chung là đi theo các động mạch và kết nối với các mạch máu ở vùng cổ, lưng, cánh tay và nách.
Các bạn xem bài viết mới trên Facebook tại đây: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn xem bài viết tiếp theo tại đây nhé: https://docsachxyz.com/giai-phau-vung-chi-tren-vung-nach-phan-1/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!