Khoang cẳng tay sau
Các cơ
Các cơ trong khoang cẳng tay sau được sắp xếp thành hai lớp: một lớp nông và một lớp sâu. Các cơ thì liên quan với:
- Sự vận động của khớp cổ tay
- Sự duỗi các ngón tay và ngón cái
- Sự ngửa bàn tay (cẳng tay)
Tất cả các cơ trong khoang cẳng tay sau đều được chi phối bởi thần kinh quay.
Lớp nông
Bảy cơ trong lớp nông là cơ cánh tay-quay, cơ duỗi cổ tay quay dài, cơ duỗi cổ tay quay ngắn, cơ duỗi chung các ngón tay, cơ duỗi riêng ngón tay út, cơ duỗi cổ tay trụ và cơ khuỷu (Hình 1). Tất cả đều có một nguyên ủy chung là từ mào trên mỏm trên lồi cầu ngoài và mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay và ngoại trừ cơ cánh tay-quay và cơ khuỷu, tất cả các cơ đều mở vào bàn tay dưới dạng các gân.
Cơ cánh tay-quay
Cơ cánh tay-quay (brachioradialis) xuất phát từ phần gần của mào trên mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay và đi qua cẳng tay để bám tận vào mặt ngoài của đầu xa xương quay, ngay phía gần (trên) của mỏm trâm xương quay (Hình 1).
Ở tư thế giải phẫu, cơ cánh tay-quay là một phần của khối cơ phủ trên mặt trước-ngoài của cẳng tay và hình thành nên giới hạn ngoài của hố trụ.
Bởi vì cơ cánh tay-quay nằm phía trước khớp khuỷu nên nó đóng vai trò như là một cơ gấp phụ của khớp này mặc dù nó nằm trong khoang cẳng tay sau. Hoạt động của nó hiệu quả nhất khi cẳng tay ở vị trí bán sấp (midpronated) và nó hình thành nên một lồi rõ khi nó hoạt động chống lại kháng lực.
Thần kinh quay xuất phát từ khoang cánh tay sau, nằm ngay bên dưới cơ cánh tay-quay trong phần xa cẳng tay và chi phối cho cơ cánh tay-quay. Phía bên ngoài hố trụ, cơ cánh tay-quay nằm phủ phía trên dây thần kinh quay và sự phân đôi của nó thành các nhánh sâu và nông. Trong các vùng xa hơn, cơ cánh tay-quay nằm phủ trên nhánh nông của thần kinh quay và động mạch quay (Bảng 13).
Cơ duỗi cổ tay quay dài
Cơ duỗi cổ tay quay dài (extensor carpi radialis longus) xuất phát từ phần xa của mào trên mỏm trên lồi cầu ngoài và mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay; gân của nó bám tận lên mặt lưng của nền xương bàn tay II (Hình 1). Trong các vùng gần, nó nằm bên dưới cơ cánh tay-quay.
Cơ duỗi cổ tay quay dài giúp duỗi và dạng cổ tay và nó được chi phối bởi thần kinh quay trước khi dây thần kinh phân chia thành các nhánh nông và sâu (Bảng 13).
Cơ duỗi cổ tay quay ngắn
Cơ duỗi cổ tay quay ngắn (extensor carpi radialis brevis) xuất phát từ mỏm trên lồi cầu ngoài xương cánh tay và gân cơ bám tận lên trên các mặt sau lân cận của các nền xương bàn tay II và III (Hình 1). Dọc theo hầu hết chặng đi của nó, cơ duỗi cổ tay quay ngắn nằm dưới cơ duỗi cổ tay quay dài.
Cơ duỗi cổ tay quay ngắn giúp duỗi và dạng cổ tay và nó được chi phối bởi nhánh sâu của thần kinh quay trước khi dây thần kinh đi giữa hai đầu của cơ ngửa (Bảng 13).
Cơ duỗi chung các ngón tay
Cơ duỗi chung các ngón tay (extensor digitorum) là cơ duỗi chính của 4 ngón tay (ngón trỏ, ngón giữa, ngón nhẫn và ngón út). Nó xuất phát từ mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay và hình thành nên bốn gân, mỗi gân trong số đó đi vào trong một ngón tay (Hình 1).
Trên mặt mu của bàn tay, các gân kế cận của cơ gấp chung các ngón tay được kết nối lại với nhau. Trong các ngón tay, mỗi gân sẽ bám tận, thông qua một cân mô liên kết hình tam giác (trẽ gân cơ duỗi [extensor hood]), vào trong nền các mặt sau của các xương ngón tay giữa và xương ngón tay xa.
Cơ duỗi chung các ngón tay được chi phối bởi thần kinh gian cốt sau, là một sự liên tục của nhánh sâu của thần kinh quay sau khi nó lộ ra khỏi cơ ngửa (Bảng 13).
Cơ duỗi riêng ngón tay út
Cơ duỗi riêng ngón tay út (extensor digiti minimi) là một cơ duỗi phụ của ngón tay út và nằm phía trong cơ duỗi chung các ngón tay trong cẳng tay (Hình 1). Nó xuất phát từ mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay và bám tận, cùng với gân của cơ duỗi chung các ngón tay, vào trong trẽ gân cơ duỗi của ngón út.
Cơ duỗi riêng ngón út được chi phối thần kinh bởi thần kinh gian cốt sau (Bảng 13).
Cơ duỗi cổ tay trụ
Cơ duỗi cổ tay trụ (extensor carpi ulnaris) thì nằm phía trong cơ duỗi riêng ngón tay út (Hình 1). Nó xuất phát từ mỏm trên lồi cầu ngoài và gân của nó bám tận vào mặt trong của nền xương bàn tay V.
Cơ duỗi cổ tay trụ giúp duỗi và khép cổ tay và được chi phối bởi thần kinh gian cốt sau (Bảng 13).
Cơ khuỷu
Cơ khuỷu (anconeus muscle) là cơ trong nhất trong số các cơ duỗi nông và có hình tam giác. Nó xuất phát từ mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay và có một bám tận rộng vào trong mặt sau-ngoài của mỏm khuỷu và mặt sau liên quan của xương trụ.
Cơ khuỷu giúp dạng xương trụ trong suốt quá trình sấp cẳng tay để giúp trục trung tâm vận động của bàn tay được giữ nguyên khi bàn tay được lật. Nó cũng được xem là một cơ duỗi khớp khuỷu phụ.
Cơ khuỷu được chi phối bởi nhánh của thần kinh quay mà chi phối cho đầu trong của cơ tam đầu cánh tay (Bảng 13).
Lớp sâu
Lớp sâu của khoang cẳng tay sau bao gồm năm cơ: cơ ngửa, cơ dạng ngón tay cái dài, cơ duỗi ngón tay cái ngắn, cơ duỗi ngón tay cái dài và cơ duỗi riêng ngón tay trỏ (Hình 2).
Ngoại trừ cơ ngửa, tất cả các cơ lớp sâu này xuất phát từ các mặt sau của xương quay, xương trụ và màng gian cốt và đi vào trong ngón cái và các ngón tay.
- Ba trong số các cơ này – cơ dạng ngón tay cái dài, cơ duỗi ngón tay cái ngắn và cơ duỗi ngón tay cái dài – lộ ra ở giữa các gân của cơ duỗi chung các ngón tay và cơ duỗi cổ tay quay và đi vào trong ngón tay cái.
- Hai trong số ba cơ “trồi lên” (cơ dạng ngón tay cái dài và cơ duỗi ngón tay cái ngắn) hình thành nên một lồi cơ trong mặt sau-ngoài của phía xa cẳng tay.
Tất cả các cơ của lớp sâu đều được chi phối thần kinh bởi thần kinh gian cốt sau, sự liên tục của nhánh sâu thần kinh quay.
Cơ ngửa
Cơ ngửa (supinator) có hai lớp, mà bám tận cùng với nhau lên phía gần của xương quay (Hình 2):
- Lớp nông hơn (lớp xương cánh tay) xuất phát chủ yếu từ mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay và dây chằng vòng và dây chằng bên quay liên quan của khớp khuỷu.
- Lớp sâu (lớp xương trụ) xuất phát chủ yếu từ mào cơ ngửa trên mặt sau-ngoài của xương trụ.
Từ các vùng nguyên ủy của chúng, hai lớp quấn quanh mặt sau và mặt ngoài của đầu, cổ và thân gần của xương quay để bám tận lên trên mặt ngoài của xương quay, ở phía trên đường chếch phía trước và chỗ bám tận của cơ sấp tròn.
Cơ ngửa làm ngửa cẳng tay và bàn tay.
Nhánh sâu của thần kinh quay chi phối cho cơ ngửa và đi đến khoang cẳng tay sau bằng cách đi giữa hai đầu của cơ này (Bảng 14).
Cơ dạng ngón tay cái dài
Cơ dạng ngón tay cái dài (abductor pollicis longus) xuất phát từ phía gần của các mặt sau của xương quay và xương trụ và từ màng gian cốt liên quan (Hình 2). Trong vùng cẳng tay xa, nó lộ ra ở giữa các cơ duỗi chung các ngón tay và cơ duỗi cổ tay quay ngắn để hình thành nên một gân mà đi vào trong ngón tay cái và bám tận lên mặt ngoài của nền xương bàn tay I. Gân đóng góp vào việc hình thành nên bờ ngoài của hõm lào giải phẫu ở cổ tay.
Chức năng chính của cơ dạng ngón tay cái dài là dạng ngón tay cái ở khớp giữa xương bàn tay I và xương thang (Bảng 14).
Cơ duỗi ngón tay cái ngắn
Cơ duỗi ngón tay cái ngắn (extensor pollicis brevis) xuất phát ở phía xa so với nguyên ủy cơ dạng ngón tay cái dài từ mặt sau của xương quay và màng gian cốt (Hình 2). Cùng với cơ dạng ngón tay cái dài, nó lộ ra ở giữa các cơ duỗi chung các ngón tay và cơ duỗi cổ tay quay ngắn để hình thành nên một lồi trên mặt sau-ngoài của vùng cẳng tay xa. Gân của cơ dạng ngón tay cái ngắn đi vào trong ngón tay cái và bám tận lên mặt sau của nền xương ngón tay gần. Ở cổ tay, gân đóng góp vào sự hình thành của bờ ngoài hõm lào giải phẫu.
Cơ duỗi ngón tay cái ngắn giúp duỗi các khớp bàn-ngón và cổ-bàn của ngón cái (Hình 14).
Cơ duỗi ngón tay cái dài
Cơ duỗi ngón tay cái dài (extensor pollicis longus) xuất phát từ mặt sau của xương trụ và màng gian cốt lân cận và bám tận thông qua một gân dài vào trong mặt lưng của xương ngón tay xa của ngón tay cái (Hình 2). Giống như cơ dạng ngón tay cái dài và cơ duỗi ngón tay cái ngắn, gân của cơ này lộ ra ở giữa cơ duỗi chung các ngón tay và cơ duỗi cổ tay quay ngắn. Tuy nhiên, nó được giữ phân tách với hai cơ sâu khác của ngón tay cái bằng cách đi vào phía trong, quanh củ sau trên đầu xa của xương quay. Gân cơ hình thành nên bờ trong của hõm lào giải phẫu ở cổ tay.
Cơ duỗi ngón tay cái dài giúp duỗi tất cả các khớp của ngón tay cái (Bảng 14).
Cơ duỗi riêng ngón tay trỏ
Cơ duỗi riêng ngón tay trỏ (extensor indicis muscle) là một cơ duỗi phụ của ngón trỏ. Nó xuất phát ở phía xa so với cơ duỗi ngón tay cái dài từ mặt sau của xương trụ và màng gian cốt liên quan (Hình 2). Gân đi vào trong bàn tay và bám tận vào trong trẽ gân cơ duỗi của ngón trỏ cùng với gân của cơ duỗi chung các ngón tay (Bảng 14).
Các động mạch và các tĩnh mạch
Cấp máu cho khoang cẳng tay sau diễn ra chủ yếu thông qua các nhánh của các động mạch quay, động mạch gian cốt sau và động mạch gian cốt trước (Hình 3).
Động mạch gian cốt sau (posterior interosseous artery)
Động mạch gian cốt sau xuất phát trong khoang trước từ nhánh gian cốt chung của động mạch trụ và đi ra phía sau qua trên bờ gần của màng gian cốt và vào trong khoang cẳng tay sau. Nó đóng góp một nhánh, là động mạch gian cốt quặt ngược (recurrent interosseous artery), đến mạng lưới mạch máu quanh khớp khuỷu và sau đó đi giữa các cơ ngửa và cơ dạng ngón tay cái dài để cấp máu cho các cơ duỗi nông. Sau khi nhân đầu tận của động mạch gian cốt trước, động mạch gian cốt sau tận cùng bằng cách hợp với cung mu cổ tay của cổ tay.
Động mạch gian cốt trước (anterior interosseous artery)
Động mạch gian cốt trước, cũng là một nhánh của động mạch gian cốt chung của động mạch trụ, thì nằm trong khoang cẳng tay trước trên màng gian cốt. Nó có nhiều nhánh xuyên mà đi một cách trực tiếp qua màng gian cốt để cấp máu cho các cơ sâu của khoang sau. Đầu tận của động mạch gian cốt trước đi ra phía sau qua một lỗ trong màng gian cốt trong các vùng xa của cẳng tay để hợp với động mạch gian cốt sau.
Động mạch quay
Động mạch quay có các nhánh cơ, là các nhánh cấp máu cho các cơ duỗi trên phía quay của cẳng tay.
Các tĩnh mạch
Các tĩnh mạch sâu của khoang sau nhìn chung đi kèm theo các động mạch. Chúng cuối cùng thoát máu vào trong các tĩnh mạch cánh tay mà liên quan với động mạch cánh tay trong hố trụ.
Các thần kinh
Thần kinh quay
Thần kinh của khoang cẳng tay sau là thần kinh quay (Hình 3). Hầu hết các cơ được chi phối bởi nhánh sâu, là nhánh xuất phát từ thần kinh quay trong thành ngoài của hố trụ, sâu bên dưới cơ cánh tay-quay và trở thành thần kinh gian cốt sau (posterior interosseous nerve) sau khi lộ ra ở giữa các lớp nông và sâu của cơ ngửa trong khoang cẳng tay sau.
Trong thành ngoài của hố trụ và trước khi phân thành các nhánh nông và sâu (superficial and deep branches), thần kinh quay chi phối cho cơ cánh tay-quay và cơ duỗi cổ tay quay dài.
Nhánh sâu chi phối cho cơ duỗi cổ tay quay ngắn, sau đó đi giữa hai lớp của cơ ngửa và đi theo mặt phẳng phân tách giữa hai lớp cơ ra phía sau và phía ngoài, quanh thân gần của xương quay, đến khoang sau của cẳng tay. Nó chi phối cho cơ ngửa và sau đó lộ ra dưới dạng dây thần kinh gian cốt sau từ cơ để nằm giữa các lớp cơ nông và sâu.
Thần kinh gian cốt sau chi phối cho các cơ còn lại trong khoang sau và tận cùng dưới dạng các nhánh khớp, là các nhánh mà đi sâu bên dưới cơ duỗi ngón tay cái dài để đến cổ tay.
Các bạn xem bài viết mới trên Facebook tại đây nhé: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn xem bài viết trước tại đây nhé: https://docsachxyz.com/giai-phau-vung-chi-tren-cang-tay-phan-3/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!