Các tạng
1. Các thận
Các thận hình dạng hạt đậu thì nằm sau phúc mạc trong vùng bụng sau (Hình 7). Chúng nằm trong mô liên kết ngoài phúc mạc ngay bên cạnh cột sống. Ở tư thế nằm ngửa, các thận mở từ gần xương đốt sống TXII ở phía trên tới xương đốt sống LIII ở phía dưới, với thận phải hơi thấp hơn so với thận trái bởi vì mối liên hệ của nó với gan. Mặc dù chúng tương tự nhau về kích thước và hình dạng nhưng thận trái thì sẽ dài hơn và mảnh hơn so với thận phải và cũng gần đường giữa hơn.

Các mối liên hệ với các cấu trúc khác:
Mặt trước của thận phải thì liên quan với nhiều cấu trúc, một vài trong số đó được phân tách với thận bởi một lớp phúc mạc và một vài trong số đó là nằm đối diện trực tiếp với thận (Hình 8):

- Một phần nhỏ của cực trên thận được che phủ bởi tuyến thượng thận phải
- Đi xuống phía dưới, một phần lớn của phần trên mặt trước thận còn lại thì nằm đối diện với gan và được phân tách với gan bởi một lớp phúc mạc.
- Ở phía trong, phần xuống của tá tràng thì nằm sau phúc mạc và có liên hệ với thận.
- Cực dưới của thận, ở phía bên ngoài của nó thì có liên quan trực tiếp với góc kết tràng phải và ở phía trong của nó thì được che phủ bởi một phần của ruột non trong phúc mạc.
Mặt trước của thận trái cũng liên quan với nhiều cấu trúc, một vài trong số đó thì có một lớp phúc mạc phân cách và một vài số khác thì có liên quan trực tiếp với thận (Hình 8):
- Một phần nhỏ của cực trên, trên mặt trong của thận thì được che phủ bởi tuyến thượng thận trái.
- Phần còn lại của cực trên thì được che phủ bởi dạ dày và lách trong phúc mạc.
- Đi xuống dưới, tụy sau phúc mạc sẽ che phủ phần giữa của thận.
- Ở phía bên ngoài của thận, nửa dưới của thận được che phủ bởi góc kết tràng trái và đoạn đầu của kết tràng xuống và ở phía trong của thận thì nó được che phủ bởi các phần hỗng tràng trong phúc mạc.
Ở phía sau, các thận phải và trái thì có liên quan đến các cấu trúc tương tự nhau (Hình 9). Ở phía trên là cơ hoành và ở phía dưới cơ hoành, đi theo hướng từ trong ra ngoài, là cơ thắt lưng lớn, cơ vuông thắt lưng và các cơ ngang bụng.

Cực trên của thận phải thì nằm trước xương sườn XII, trong khi cũng vùng này của thận trái thì nằm trước các xương sườn XI và XII. Các khe màng phổi và đặc biệt là các khe sườn hoành vì thế sẽ mở ra sau các thận.
Cũng đi sau các thận là các mạch máu dưới sườn, các dây thần kinh dưới sườn và các dây thần kinh chậu – hạ vị và chậu – bẹn.
Mỡ thận và mạc thận:
Các thận được giới hạn bên trong và liên quan với một sự sắp xếp đặc trưng của mạc và mỡ. Ngay bên ngoài bao thận, có một sự tích tụ mỡ ngoài phúc mạc – mỡ quanh thận (perinephric fat hay perirenal fat), thành phần mà bao quanh thận hoàn toàn (Hình 10). Bao quanh mỡ quanh thận là một sự kết đặc dạng màng của mạc ngoài phúc mạc (mạc thận [renal fascia]). Các tuyến thượng thận thì cũng được bao quanh trong khoang mạc này, thường được phân tách với các thận bởi một vách mỏng. Mạc thận phải bị cắt qua trong phẫu thuật tiếp cận đến cơ quan này.

Ở các bờ ngoài của mỗi thận, các lớp trước và sau của mạc thận sẽ hợp lại với nhau (Hình 10). Lớp hợp lại này có thể kết nối với mạc ngang trên thành bụng ngoài.
Phía trên mỗi tuyến thượng thận, các lớp trước và sau của mạc thận hợp lại và hòa lẫn với mạc che phủ cơ hoành.
Ở phía trong, lớp trước của mạc thận tiếp tục qua các mạch máu trong rốn thận và hợp với mô liên kết liên quan với động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ dưới (Hình 10). Trong một số trường hợp, lớp trước có thể đi qua đường giữa đến bên đối diện và hòa lẫn với lớp tương ứng của nó bên phía đối diện.
Lớp sau của mạc thận đi vào bên trong giữa thận và mạc che phủ cơ vuông thắt lưng để hợp với mạc che phủ cơ thắt lưng lớn.
Ở phía bên dưới, các lớp trước và sau của mạc thận bao quanh lấy niệu quản.
Ngoài mỡ quanh thận và mạc thận, một lớp mỡ cạnh thận (paranephric fat hay pararenal fat) cuối cùng giúp hoàn thiện thành phần mỡ và các mạc liên quan với thận (Hình 10). Mỡ này tích tụ ở phía sau và phía sau – ngoài mỗi thận.
Cấu trúc thận:
Mỗi thận có một mặt trước và mặt sau mịn được che phủ bởi một lớp bao sợi, bao này có thể dễ dàng bóc tách trừ khi mắc bệnh lý.
Trên bờ trong của mỗi thận là rốn thận (hilum of the kidney), đây là một rãnh dọc sâu mà qua đó các mạch máu thận, các mạch bạch huyết thận và các dây thần kinh thận đi vào và rời khỏi thận (Hình 11). Ở bên trong, rốn thận liên tục với xoang thận. Mỡ quanh thận liên tục vào trong rốn thận và xoang thận và bao quanh tất cả các cấu trúc.

Mỗi thận bao gồm một vỏ thận (renal cortex) ngoài và một tủy thận (renal medulla) trong. Vỏ thận là một dải mô nhạt màu liên tục mà bao quanh hoàn toàn lấy tủy thận. Các sự mở rộng của vỏ thận (các cột thận [renal columns]) vào trong phía trong của thận, chia tủy thận thành các thành phần mô hình tam giác không liên tục (các tháp thận [renal pyramids]).
Các nền của các tháp thận thì hướng ra phía bên ngoài về phía vỏ thận, trong khi đó, đỉnh của tháp thận nhô vào bên trong về phía xoang thận (renal sinus). Các lồi đỉnh (các nhú thận [renal papilla]) chứa các lỗ mở của các ống nhú, giúp thoát dịch từ các ống thận và được bao quanh bởi đài thận nhỏ (minor calyx).
Các đài thận nhỏ nhận nước tiểu từ các ống nhú và đại diện cho các phần gần của ống mà cuối cùng sẽ hình thành nên niệu quản (Hình ). Trong xoang thận, một số đài thận nhỏ hợp lại để hình thành nên đài thận lớn (major calyx), và 2 hoặc 3 đài thận lớn hợp lại để hình thành nên chậu thận (renal pelvis), thành phần này là đầu trên dạng hình phễu của các niệu quản.
Hệ thống mạch máu thận và các mạch bạch huyết thận:
Một động mạch thận (renal artery) đơn lớn, một nhánh của động mạch chủ bụng, cấp máu cho mỗi thận. Các mạch máu này thường xuất phát từ ngay bên dưới gốc của động mạch mạc treo tràng trên, giữa các xương đốt sống LI và LII (Hình 12). Động mạch thận trái (left renal artery) thường xuất phát hơi cao hơn so với bên phải và động mạch thận phải (right renal artery) thì dài hơn và đi ra sau tĩnh mạch chủ dưới.

Khi mỗi động mạch thận gần đến rốn thận, nó chia thành các nhánh trước và sau, các nhánh này cấp máu cho nhu mô thận. Các động mạch thận phụ thì cũng thường xuất hiện. Chúng xuất phát từ mặt ngoài của động mạch chủ bụng, ở bên trên hoặc bên dưới các động mạch thận chính, đi vào trong rốn thận cùng với các động mạch thận chính hoặc đi trực tiếp vào trong thận ở một số mức khác nhau và thường được gọi là các động mạch ngoài rốn thận (extrahilar arteries).
Nhiều tĩnh mạch thận đóng góp vào sự hình thành của các tĩnh mạch thận trái và phải (left and right renal veins), cả hai tĩnh mạch thận là nằm ở phía trước các động mạch thận (Hình 12A). Quan trọng, tĩnh mạch thận trái dài hơn đi qua đường giữa ở phía trước động mạch chủ bụng và ở phía sau động mạch mạc treo tràng trên và có thể bị đè ép bởi sự phình lên của một trong hai mạch máu này (Hình 12B).
Thoát dịch bạch huyết của mỗi thận là đến các hạch động mạch chủ ngoài (lateral aortic nodes) (hay các hạch thắt lưng [lumbar nodes]) quanh gốc của động mạch thận.
2. Các niệu quản
Các niệu quản là các ống cơ mà vận chuyển nước tiểu từ các thận đến bàng quang. Chúng liên tục ở phía trên với chậu thận, là cấu trúc dạng phễu trong xoang thận. Chậu thận được hình thành từ một sự hợp lại của 2 hoặc 3 đài thận lớn, là các thành phần mà được hình thành bởi sự hợp lại của một vài đài thận nhỏ (xem Hình 11). Các đài thận nhỏ bao quanh một nhú thận.
Chậu thận hẹp lại đi khi nó đi xuống dưới qua rốn thận và trở nên liên tục với niệu quản ở chỗ nối niệu quản – chậu thận (ureteropelvic junction) (Hình 13). Phía dưới chỗ nối này, các niệu quản đi xuống sau phúc mạc trên mặt trong của cơ thắt lưng lớn. Ở vành chậu (pelvic brim), các niệu quản bắt chéo qua đầu tận của động mạch chậu chung hay đoạn đầu của động mạch chậu ngoài, đi vào trong khoang chậu và tiếp tục chặng đi của nó đến bàng quang.

Ở ba điểm dọc theo chặng đi của chúng thì các niệu quản thì sẽ bị hẹp lại (Hình 13):
- Điểm đầu tiên là ở chỗ nối niệu quản – chậu thận.
- Điểm thứ hai là nơi mà niệu quản bắt chéo qua các mạch máu chậu chung ở vành chậu.
- Điểm thứ ba là nơi mà các niệu quản đi vào trong thành của bàng quang.
Các sỏi thận sẽ bị kẹt lại ở các chỗ hẹp này.
Hệ thống mạch máu và mạch bạch huyết của niệu quản:
Các niệu quản nhận các nhánh động mạch từ các mạch máu lân cận khi chúng đi về phía bàng quang (Hình 13):
- Các động mạch thận cấp máu cho đầu trên niệu quản.
- Phần giữa có thể nhận các nhánh từ động mạch chủ bụng, các động mạch tinh hoàn hoặc động mạch buồng trứng và các động mạch chậu chung.
- Trong khoang chậu, các niệu quản được cấp máu bởi một hoặc nhiều động mạch từ các nhánh của các động mạch chậu trong.
Trong tất cả các trường hợp, các động mạch đến các niệu quản sẽ phân chia thành các nhánh lên và nhánh xuống, các nhánh này sẽ hình thành nên các thông nối dọc.
Thoát dịch bạch huyết của các niệu quản sẽ theo một kiểu tương tự với động mạch cấp máu. Dịch bạch huyết từ:
- Phần trên của mỗi niệu quản thoát vào trong các hạch động mạch chủ ngoài (các hạch thắt lưng).
- Phần giữa của mỗi niệu quản thoát vào trong các hạch liên quan với các mạch máu chậu chung.
- Phần dưới của mỗi niệu quản thoát vào trong các hạch liên quan với các mạch máu chậu trong và chậu ngoài.
Chi phối thần kinh niệu quản:
Chi phối thần kinh niệu quản là từ đám rối thận, đám rối động mạch chủ, đám rối hạ vị trên và đám rối hạ vị dưới thông qua các dây thần kinh mà đi theo các mạch máu.
Các sợi ly tâm tạng đến từ cả nguồn giao cảm và phó giao cảm, ngược lại, các sợi hướng tâm tạng sẽ trở về các mức tủy sống từ T11 đến L2. Đau niệu quản, thường liên quan đến sự giãn nở của niệu quản, vì thế thường sẽ quy chiếu đến các vùng bì được chi phối bởi các mức tủy T11 đến L2. Các vùng này rất có thể sẽ bao gồm thành bụng sau và ngoài bên dưới các xương sườn và bên trên mào chậu, vùng mu, bìu ở nam giới, môi lớn ở nữ giới và mặt trước của đùi.
3. Các tuyến thượng thận
Các tuyến thượng thận thì liên quan với cực trên của mỗi thận (Hình 14). Chúng bao gồm một vỏ ngoài và một tủy bên trong. Tuyến thượng thận phải thì có dạng hình tháp, ngược lại tuyến thượng thận trái thì có hình bán nguyệt và lớn hơn tuyến thượng thận phải.

Phía trước tuyến thượng thận phải là một phần thùy phải của gan và tĩnh mạch chủ dưới, ngược lại, phía trước tuyến thượng thận trái là một phần của dạ dày, tụy và đôi khi, là cả lách. Các phần cơ hoành thì nằm ở phía sau của cả hai tuyến.
Các tuyến thượng thận thì được bao quanh bởi mỡ quanh thận và được bọc trong mạc thận mặc dù một vách mỏng sẽ phân tách mỗi tuyến thượng thận khỏi thận liên quan của nó.
Hệ thống mạch máu tuyến thượng thận:
Cấp máu động mạch cho các tuyến thượng thận thì phong phú và xuất phát từ 3 nguồn chính (Hình 14):
- Khi động mạch hoành dưới hai bên đi lên trên từ động mạch chủ bụng đến cơ hoành, chúng cho ra nhiều nhánh (các động mạch thượng thận trên) đến các tuyến thượng thận.
- Một nhánh giữa (động mạch thượng thận giữa) đến các tuyến thượng thận thường xuất phát trực tiếp từ động mạch chủ bụng.
- Các nhánh dưới (các động mạch thượng thận dưới) từ các động mạch thận đi lên trên đến các tuyến thượng thận.
Ngược lại với sự cấp máu động mạch phong phú này là sự thoát máu tĩnh mạch mà thường chỉ gồm một tĩnh mạch đơn rời khỏi rốn của mỗi tuyến thượng thận. Ở phía bên phải, tĩnh mạch thượng thận phải (right suprarenal vein) thì ngắn và gần như ngay lập tức đi vào tĩnh mạch chủ dưới, trong khi ở phía bên trái, tĩnh mạch thượng thận trái (left suprarenal vein) đi xuống dưới để đổ vào trong tĩnh mạch thận trái.
Sự chi phối thần kinh tuyến thượng thận:
Tuyến thượng thận thì chủ yếu được chi phối bởi các sợi giao cảm trước hạch từ các mức tủy sống từ T8 đến L1 mà đi qua cả thân giao cảm và đám rối trước sống mà không có tiếp nối synap. Các sợi trước hạch này chi phối một cách trực tiếp cho các tế bào của tủy thượng thận.
Các bạn xem thêm bài viết trên trang Facebook tại đây nhé: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn xem lại bài viết trước tại đây nhé: https://docsachxyz.com/giai-phau-vung-bung-sau-phan-1/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!