Khi một xung động tim đi qua tim thì dòng điện cũng sẽ lan truyền từ tim vào trong các mô xung quanh tim. Một phần nhỏ của dòng điện lan truyền đến bề mặt của cơ thể. Nếu như các điện cực được đặt trên da ở các phía đối diện của tim thì các điện thế được tạo ra bởi dòng điện có thể được ghi lại; sự ghi lại này được gọi là điện tâm đồ. Một điện tâm đồ bình thường của hai nhịp tim được thể hiện trong Hình 1.
Các dạng sóng của điện tâm đồ bình thường
Điện tâm đồ (ECG) bình thường (xem Hình 1) được cấu thành bởi một sóng P, một phức hợp QRS, và một sóng T. Phức hợp QRS thì thường (không phải lúc nào cũng vậy) có 3 sóng riêng rẽ: sóng Q, sóng R và sóng S.
Sóng P được tạo ra bởi các điện thế hình thành khi mà các tâm nhĩ khử cực trước khi sự co tâm nhĩ bắt đầu. Phức hợp QRS được tạo ra bởi các điện thế hình thành khi mà các tâm thất khử cực trước khi co – nghĩa là khi sóng khử cực lan qua các tâm thất. Vì thế, cả sóng P và các thành phần của phức hợp QRS là các sóng khử cực.
Sóng T được tạo ra bởi các điện thế hình thành khi mà các tâm thất phục hồi sau khử cực. Quá trình này bình thường sẽ xảy ra bên trong cơ tâm thất khoảng 0.25 đến 0.35 giây sau khi sự khử cực xảy ra. Sóng T được gọi là sóng tái cực.
Vì thế, điện tâm đồ được tạo thành bởi cả các sóng khử cực và tái cực. Các nguyên lý của sự khử cực và tái cực đã được bàn luận trong một bài viết khác. Sự phân biệt giữa các sóng khử cực và các sóng tái cực thì quan trọng trong điện tâm đồ đến nỗi việc làm sáng tỏ chúng là cần thiết.
1. Các sóng khử cực và các sóng tái cực của tim
Hình 2 cho thấy một sợi cơ tim trong 4 giai đoạn của sự khử cực và tái cực, với màu đỏ đại diện cho sự khử cực. Trong suốt quá trình khử cực, điện thế âm bình thường ở bên trong sợi cơ sẽ bị đảo ngược và trở nên hơi dương ở bên trong và âm ở bên ngoài.
Trong Hình 2A, sự khử cực, được thể hiện bởi các điện tích dương màu đỏ ở bên trong và các điện tích âm màu đỏ ở bên ngoài, đi từ trái sang phải. Nửa đầu tiên của sợi cơ đã bị khử cực trong khi nửa còn lại thì vẫn phân cực. Vì thế, điện cực bên trái ở bên ngoài của sợi cơ sẽ nằm trong một vùng tích điện âm và điện cực bên phải thì nằm trong một vùng tích điện dương, những điều này sẽ làm cho máy đo ghi lại kết quả dương. Phía bên phải của sợi cơ trên hình là sự ghi lại các thay đổi điện thế giữa hai điện cực bởi một máy ghi tốc độ cao. Chú ý rằng khi sự khử cực xảy ra đến điểm ở chính giữa sợi cơ như trong Hình 2A thì kết quả ghi lại sẽ đạt đến giá trị dương tối đa.
Trong Hình 2B, sự khử cực được lan rộng trên toàn bộ sợi cơ và kết quả ghi lại ở phía bên phải sẽ trở về đường cơ sở bởi vì cả hai điện cực bây giờ đều ở trong các vùng có tích điện âm như nhau. Sóng đã hình thành là một sóng khử cực bởi vì nó là kết quả của quá trình lan truyền sự khử cực dọc theo màng sợi cơ.
Hình 2C cho thấy sự tái cực một nửa trên cùng một sợi cơ, với sự tích điện dương trở lại ở bên ngoài sợi cơ. Ở điểm này, điện cực bên trái thì nằm trong một vùng tích điện dương và điện cực bên phải nằm trong một vùng tích điện âm. Sự phân cực này sẽ ngược lại so với sự phân cực trong Hình 2A. Cuối cùng, kết quả ghi lại, được thể hiện ở bên phải, sẽ có giá trị âm.
Trong Hình 2D, sợi cơ được tái cực một cách hoàn toàn và cả hai điện cực bây giờ đều nằm trong các vùng tích điện dương, vì thế, không có có sự chênh lệch điện thế được ghi lại giữa chúng. Vì vậy, trong kết quả được ghi lại ở phía bên phải thì điện thế sẽ trở về giá trị 0 một lần nữa. Sóng âm hoàn chỉnh này là một sóng tái cực bởi vì nó là kết quả của việc lan truyền sự tái cực dọc theo màng sợi cơ.
Sự liên quan của điện thế hoạt động một pha của cơ tâm thất với các sóng QRS và T trong điện tâm đồ tiêu chuẩn. Điện thế hoạt động một pha của cơ tâm thất bình thường sẽ kéo dài trong khoảng giữa 0.25 và 0.35 giây. Ở trên cùng của Hình 3 cho thấy một điện thế hoạt động một pha được ghi lại từ một vi điện cực cấy vào bên trong một sợi cơ tâm thất. Sự đi lên trên của điện thế hoạt động này được gây ra bởi sự khử cực và sự trở về đường cơ sở của điện thế hoạt động này được gây ra bởi sự tái cực.
Nửa dưới của Hình 3 cho thấy sự ghi lại đồng thời của điện tâm đồ từ cùng một sợi cơ tâm thất. Chú ý rằng các sóng QRS xuất hiện ở đầu của điện thế hoạt động đơn pha và sóng T xuất hiện ở cuối. Đặc biệt, để ý rằng là không có điện thế được ghi lại trên điện tâm đồ khi sợi cơ tâm thất phân cực hoặc khử cực hoàn toàn. Chỉ khi nào mà sợi cơ được phân cực một phần và khử cực một phần thì dòng điện mới đi từ một phần của các tâm thất đến một phần khác và vì thế dòng điện cũng đi đến bề mặt của cơ thể để có thể ghi lại điện tâm đồ.
2. Mối liên hệ của sự co tâm nhĩ và tâm thất với các sóng của điện tâm đồ
Trước khi sự co cơ có thể diễn ra, sự khử cực phải lan truyền qua cơ để khởi động các quá trình hóa học của sự co cơ. Nhìn lại Hình 1; sóng P xuất hiện lúc bắt đầu của sự co các tâm nhĩ và phức hợp các sóng QRS xuất hiện lúc bắt đầu của quá trình co các tâm thất. Các tâm thất vẫn co cho đến sau khi tái cực diễn ra – nghĩa là cho đến sau khi kết thúc sóng T.
Các tâm nhĩ tái cực khoảng 0.15 đến 0.2 giây sau khi sóng P kết thúc, gần lúc phức hợp QRS được ghi lại trên điện tâm đồ. Vì thế, sóng tái cực của tâm nhĩ, được gọi là sóng T tâm nhĩ, thường bị che khuất bởi phức hợp QRS lớn hơn rất nhiều. Vì lý do này, sóng T tâm nhĩ thì hiếm khi được quan sát thấy trên điện tâm đồ.
Sóng tái cực của tâm thất là sóng T của điện tâm đồ bình thường. Thông thường, cơ tâm thất bắt đầu tái cực trong một số sợi cơ khoảng 0.2 giây sau khi sóng khử cực bắt đầu (phức hợp QRS), nhưng trong nhiều sợi cơ khác, phải tốn đến 0.35 giây. Vì thế, quá trình tái cực của tâm thất mở rộng trong một khoảng thời gian dài, khoảng 0.15 giây. Vì lý do này, sóng T trong điện tâm đồ bình thường là một sóng kéo dài nhưng điện áp của sóng T thì nhỏ hơn đáng kể so với điện áp của phức hợp QRS, một phần là do sự kéo dài của nó.
3. Sự hiệu chuẩn và sự hiển thị của điện tâm đồ
Tất cả các quá trình ghi lại điện tâm đồ đều được thực hiện với các đường hiệu chuẩn thích hợp trên lưới hiển thị điện tâm đồ. Trong lịch sử, các điện tâm đồ được ghi lại bằng điện tử và in ra trên giấy; các điện tâm đồ bây giờ thường được hiển thị bằng kỹ thuật số. Như được thể hiện trên Hình 1, các đường hiệu chuẩn ngang được sắp xếp sao cho 10 đường phân chia nhỏ lên trên hay xuống dưới trong ECG tiêu chuẩn sẽ biểu thị cho 1 millivolt, với tính dương theo hướng lên trên và tính âm theo hướng xuống dưới.
Các đường thẳng đứng trên ECG là các đường hiệu chuẩn thời gian. Một ECG điển hình thì sẽ chạy ở tốc độ 25 millimeters mỗi giây, mặc dù các tốc độ nhanh hơn đôi khi sẽ được sử dụng. Vì thế, mỗi 25 millimeters theo hướng ngang sẽ tương ứng với 1 giây và mỗi thành phần 5-millimeter, được thể hiện bởi đường đứng dọc đậm, sẽ biểu thị cho 0.2 giây. Các khoảng thời gian 0.2 giây sau đó được chia thành 5 khoảng thời gian nhỏ hơn bằng các đường mảnh hơn, mỗi đường này sẽ đại diện cho mỗi khoảng thời gian là 0.04 giây.
Các điện thế bình thường trong điện tâm đồ. Các điện áp ghi lại của các sóng trên ECG bình thường phụ thuộc vào cách mà các điện cực được sử dụng trên bề mặt cơ thể và các điện cực được đặt gần tim như thế nào. Khi một điện cực được đặt ngay trên các tâm thất, và một điện cực thứ hai được đặt ở bất kỳ đâu khác trên cơ thể cách xa tim thì điện áp của phức hợp QRS có thể lên tới 3 đến 4 millivolts. Ngay cả điện áp này cũng nhỏ so với điện thế hoạt động là 110 millivolts được ghi lại trực tiếp ở màng cơ tim. Khi ECGs được ghi lại từ các điện cực trên hai cánh tay hay trên một cánh tay và một chân thì điện áp của phức hợp QRS thường là 1.0 đến 1.5 millivolts tính từ đỉnh sóng R đến đáy sóng S, điện áp của sóng P thì nằm trong khoảng 0.1 và 0.3 millivolts và điện áp của sóng T là nằm giữa 0.2 và 0.3 millivolts.
Các khoảng P-Q hay P-R. Khoảng thời gian giữa đầu sóng P và đầu của phức hợp QRS là khoảng thời gian giữa lúc bắt đầu kích thích điện của các tâm nhĩ và lúc bắt đầu của sự kích thích điện các tâm thất. Khoảng thời gian này được gọi là khoảng P-Q. Khoảng P-Q bình thường là khoảng 0.16 giây. (Thông thường, khoảng thời gian này được gọi là khoảng P-R bởi vì sóng Q thì dường như sẽ không xuất hiện). Khoảng P-R sẽ ngắn hơn ở các tần số tim nhanh hơn do tăng hoạt động giao cảm hay giảm hoạt động phó giao cảm, làm tăng tốc độ dẫn truyền nút nhĩ-thất. Ngược lại, khoảng P-R dài ra khi các tần số tim chậm đi do sự dẫn truyền chậm hơn của nút nhĩ-thất gây ra bởi tăng hoạt động phó giao cảm hay giảm hoạt động giao cảm.
Khoảng Q-T. Sự co tâm thất kéo dài hầu như gần hết khoảng từ đầu sóng Q (hay sóng R, nếu như sóng Q không có) đến cuối sóng T. Khoảng này được gọi là khoảng Q-T và thông thường là khoảng 0.35 giây.
Tần số tim khi được xác định từ điện tâm đồ. Tần số tim có thể được xác định một cách dễ dàng từ một ECG bởi vì tần số tim là nghịch đảo của khoảng thời gian 2 nhịp tim kế tiếp (khoảng RR). Nếu như khoảng thời gian giữa hai nhịp tim kế tiếp được xác định từ các đường hiệu chuẩn thời gian là 1 giây thì tần số tim là 60 nhịp/phút. Khoảng thời gian bình thường giữa 2 phức hợp QRS kế tiếp ở một người trưởng thành là khoảng 0.83 giây, do đó, tần số tim là 60/0.83 nhịp/phút, hay 72 nhịp/phút.
Dòng điện quanh tim trong suốt chu kỳ tim
1. Ghi lại các điện thế từ khối cơ tim hợp bào khử cực một phần
Hình 4 cho thấy khối hợp bào cơ tim được kích thích ở điểm trung tâm nhất. Trước sự kích thích, tất cả phía bên ngoài của các tế bào cơ đều tích điện dương và phía bên trong là tích điện âm. Ngay khi một khu vực của hợp bào cơ tim được khử cực, các điện tích âm rò rỉ ra bên ngoài các sợi cơ khử cực, làm cho phần này của bề mặt có điện tích âm, được thể hiện bởi các dấu trừ (-) trong Hình 4. Phần bề mặt còn lại của tim, phần vẫn còn phân cực, sẽ được thể hiện bởi các dấu cộng (+). Vì thế, một máy đo kết nối cực âm của nó trên khu vực khử cực và cực dương trên một khu vực vẫn phân cực, được thể hiện ở phía bên phải của hình, sẽ ghi lại một kết quả là dương.
Hai cách đặt điện cực và số trên máy đo khác cũng được thể hiện trong Hình 4. Những sự đặt và kết quả trên máy đo này nên được xem xét kỹ lưỡng và bạn đọc cũng có thể giải thích nguyên nhân của các kết quả trên máy đo này. Bởi vì sự khử cực lan rộng theo tất cả các hướng qua tim nên các sự chênh lệch điện thế được thể hiện trên hình chỉ kéo dài trong khoảng vài phần ngàn giây và sự đo điện áp thực sự chỉ có thể được thực hiện với các máy ghi tốc độ cao.
2. Các dòng điện trong ngực ở quanh tim
Hình 5 cho thấy khối cơ tâm thất nằm bên trong lồng ngực. Thậm chí các phổi, mặc dù chứa đầy không khí nhưng vẫn dẫn điện với một mức độ đáng kinh ngạc và các dịch trong các mô khác quanh tim dẫn điện thậm chí còn dễ dàng hơn. Vì thế, tim thực sự nằm trong một môi trường dẫn truyền. Khi một phần của các tâm thất khử cực và vì thế trở nên tích điện âm so với phần còn lại thì các dòng điện đi từ vùng khử cực đến vùng phân cực theo các đường vòng quanh lớn như trên hình.
Các bạn nhớ lại là xung động tim đầu tiên sẽ đến các tâm thất tại vách và rất nhanh sau đó lan đến các mặt trong của các phần tâm thất còn lại, được thể hiện bởi các khu vực màu đỏ và các dấu trừ (-) trong Hình 5. Quá trình này sẽ làm xuất hiện tích điện âm ở các mặt trong của các tâm thất và tích điện dương trên các thành ngoài của các tâm thất, với dòng điện đi qua các dịch xung quanh các tâm thất theo các đường elip, được thể hiện bởi các mũi tên cong trên hình. Nếu như tính trung bình đại số cho tất cả các đường dòng điện (các đường elip) thì dòng điện trung bình sẽ được biểu diễn với tích điện âm hướng về phía đáy tim và tích điện dương hướng về phía đỉnh tim.
Trong suốt hầu hết thời gian còn lại của quá trình khử cực, dòng điện cũng tiếp tục đi theo hướng đó, ngược lại, sự khử cực sẽ lan từ mặt nội tâm mạc ra phía ngoài qua khối cơ tâm thất. Sau đó, ngay trước khi sự khử cực hoàn thành chặng đi của nó qua các tâm thất thì hướng trung bình của dòng điện sẽ đảo ngược trong khoảng 0.01 giây, từ đỉnh tim đến đáy tim, bởi vì phần cuối cùng của tim được khử cực là các thành ngoài của các tâm thất nằm gần đáy tim.
Vì thế, trong các tâm thất của tim bình thường, các dòng điện từ âm đến dương chủ yếu theo hướng từ đáy tim đến đỉnh tim trong suốt hầu hết toàn bộ chu kỳ khử cực, trừ khoảng thời gian ở rất cuối chu kỳ. Nếu như một máy đo được kết nối với các điện cực trên bề mặt của cơ thể, như trong Hình 5, điện cực gần đáy tim hơn sẽ là âm, ngược lại, điện cực gần đỉnh tim hơn sẽ là dương, và máy đo sẽ cho một kết quả dương trên ECG.
Các chuyển đạo của điện tâm đồ
1. 3 chuyển đạo chi lưỡng cực tiêu chuẩn
Hình 6 cho thấy các kết nối điện giữa các chi của bệnh nhân và máy đo điện tâm đồ để ghi lại ECGs từ các chuyển đạo chi lưỡng cực. Từ “lưỡng cực” nghĩa là ECG được ghi lại từ 2 điện cực nằm trên các phía khác nhau của tim – trong trường hợp này là trên các chi. Vì thế, một chuyển đạo thì không phải là một kết nối dây dẫn duy nhất từ cơ thể mà là một sự kết hợp của hai kết nối dây dẫn và các điện cực của chuyển đạo để tạo thành một mạch điện hoàn chỉnh giữa cơ thể và máy đo. Máy đo điện tâm đồ trong mỗi trường hợp được biểu diễn bởi một máy đo điện áp trong sơ đồ, mặc dù máy đo điện tâm đồ thực sự là một hệ thống máy tính tốc độ cao cùng với một màn hình điện tử.
Chuyển đạo I. Trong quá trình ghi lại chuyển đạo chi I, cực âm của máy đo sẽ được kết nối với tay phải và cực dương sẽ được kết nối với tay trái. Vì thế, khi mà điểm ở vị trí tay phải kết nối đến ngực âm so với điểm tương ứng bên tay trái thì máy ghi sẽ ghi lại kết quả dương – nghĩa là, ở trên đường điện áp không (zero-voltage line) trên ECG. Khi điều ngược lại xảy ra thì máy ghi sẽ ghi lại kết quả ở bên dưới đường này.
Chuyển đạo II. Để ghi lại chuyển đạo chi II, cực âm của máy được kết nối với tay phải và cực dương sẽ được kết nối với chân trái. Vì thế, khi tay phải âm so với chân trái thì máy sẽ ghi lại kết quả dương.
Chuyển đạo III. Để ghi lại chuyển đạo chi III, cực âm của máy ghi sẽ được kết nối đến tay trái và cực dương sẽ được kết nối đến chân trái. Sự sắp xếp này có nghĩa là máy ghi sẽ ghi lại kết quả dương khi mà tay trái âm hơn so với chân trái.
Tam giác Einthoven. Trong Hình 6, tam giác được gọi là tam giác Einthoven sẽ được vẽ quanh khu vực của tim. Tam giác này minh họa cho việc hai tay và chân trái hình thành nên các đỉnh của tam giác quanh tim. Hai đỉnh ở phần trên của tam giác biểu diễn cho các điểm mà hai cánh tay kết nối điện với các dịch quanh tim, và đỉnh dưới là điểm mà ở đó chân trái kết nối với các dịch quanh tim.
Định luật Einthoven. Định luật Einthoven phát biểu rằng nếu các ECGs được ghi lại một cách đồng thời với 3 chuyển đạo chi thì tổng các điện thế được ghi lại trong các chuyển đạo I và III sẽ bằng với điện thế trong chuyển đạo II:
Điện thế chuyển đạo I + Điện thế chuyển đạo III = Điện thế chuyển đạo II
Nói cách khác, nếu như các điện thế của bất cứ 2 trong 3 chuyển đạo chi lưỡng cực nào được biết ở một thời điểm thì điện thế của chuyển đạo chi lưỡng cực thứ 3 có thể được xác định một cách đơn giản bằng cách cộng hai chuyển đạo đầu tiên. Tuy nhiên, chú ý rằng là các dấu âm và dấu dương của các chuyển đạo khác nhau phải được để ý khi thực hiện việc cộng này.
Ví dụ, hãy tưởng tượng rằng trong một khoảng thời gian rất ngắn, như trong Hình 6, tay phải là -0.2 millivolts (âm) so với điện thế trung bình của cơ thể, tay trái là +0.3 millivolts (dương) và chân trái là +1.0 millivolts (dương). Quan sát các máy đo trong hình này, các bạn có thể thấy rằng là chuyển đạo I ghi lại một điện thế dương là +0.5 millivolts bởi vì đây là sự chênh lệch giữa -0.2 millivolts trên tay phải và +0.3 millivolts trên tay trái. Tương tự, chuyển đạo III ghi lại một điện thế dương là +0.7 millivolts và chuyển đạo II ghi lại một điện thế dương là +1.2 millivolts bởi vì có các sự chênh lệch điện thế ngay tại thời điểm đó giữa các cặp chi tương ứng.
Bây giờ, chú ý rằng tổng các điện áp trong các chuyển đạo I và III bằng với điện áp trong chuyển đạo II; đó là, 0.5 cộng 0.7 bằng 1.2. Về mặt toán học, nguyên lý này, được gọi là định luận Einthoven, đúng ở bất kỳ thời điểm nào mà 3 ECGs lưỡng cực tiêu chuẩn được ghi lại.
Các điện tâm đồ bình thường được ghi lại từ 3 chuyển đạo chi lưỡng cực tiêu chuẩn. Hình 7 cho thấy các sự ghi lại của các ECGs trong các chuyển đọa I, II và III. Rõ ràng rằng là các ECGs trong 3 chuyển đạo chi này thì tương tự nhau bởi vì tất cả chúng đều ghi lại các sóng P dương và các sóng T dương và phần chính là phức hợp QRS cũng dương trong mỗi ECG. Khi phân tích 3 ECGs, có thể thấy được rằng, khi đo đạc cẩn thận và tuân thủ các sự phân cực, ở bất cứ thời điểm nào, tổng của các điện thế trong các chuyển đạo I và III sẽ bằng với điện thế trong chuyển đạo II, vì thế, đã chứng minh tính đúng đắn của định luật Einthoven.
Bởi vì việc ghi lại tất cả các chuyển đạo chi lưỡng cực thì tương tự nhau nên sẽ không phải là vấn đề lớn trong việc quyết định ghi lại chuyển đạo nào khi một bác sĩ muốn chẩn đoán các rối loạn nhịp tim khác nhau bởi vì chẩn đoán loạn nhịp phụ thuộc chủ yếu vào các mối liên hệ thời gian giữa các sóng khác nhau của chu kỳ tim. Tuy nhiên, khi một bác sĩ muốn chẩn đoán tổn thương trong cơ tâm thất hoặc cơ tâm nhĩ hoặc trong hệ thống dẫn truyền Purkinje thì sẽ là vấn đề lớn trong việc chọn các chuyển đạo nào sẽ được ghi lại bởi vì các bất thường của sự co cơ tim hay các dẫn truyền xung động tim sẽ làm thay đổi hình dạng của các ECGs đáng kể trong một số chuyển đạo mà không ảnh hưởng đến các chuyển đạo khác. Đọc điện tâm đồ của 2 tình trạng này – các bệnh cơ tim và các rối loạn nhịp tim – thì sẽ được nói đến trong các bài viết sau.
2. Các chuyển đạo trước tim
Thường thì các ECGs được ghi lại với một điện cực đặt trên mặt trước của ngực ngay trên tim ở một trong các điểm trên Hình 8. Điện cực này được kết nối với cực dương của máy ghi và điện cực âm, được gọi là điện cực trung tính hay điện cực trung tâm Wilson, được kết nối qua các điện trở giống nhau đến tay phải, tay trái và chân trái cùng một lúc, như được thể hiện trên hình. Thông thường, 6 chuyển đạo ngực tiêu chuẩn được ghi lại lần lượt từ thành ngực trước, với điện cực ngực được đặt liên tiếp ở 6 điểm được thể hiện trên sơ đồ. Các sự ghi lại khác nhau được gọi là các chuyển đạo V1, V2, V3, V4, V5 và V6.
Hình 9 minh họa các ECGs của tim khỏe mạnh khi ghi lại kết quả từ 6 chuyển đạo tiêu chuẩn này. Bởi vì các bề mặt tim thì gần với thành ngực nên mỗi chuyển đạo ngực sẽ ghi lại chủ yếu điện thế của hệ thống cơ tim ở ngay bên dưới điện cực. Vì thế, các bất thường tương đối nhỏ trong các tâm thất cụ thể là trong thành trước tâm thất, có thể gây ra các thay đổi đáng kể trong các ECGs được ghi lại từ các chuyển đạo ngực riêng biệt.
Trong các chuyển đạo V1 và V2 thì các phức hợp QRS ghi lại của tim bình thường hầu như là sẽ âm bởi vì như được thể hiện trong Hình 8, điện cực ngực trong các chuyển đạo này thì gần với đáy tim hơn so với đỉnh tim và đáy tim là hướng của điện tích âm trong hầu hết quá trình khử cực tâm thất. Ngược lại, phức hợp QRS trong các chuyển đạo V4, V5 và V6 chủ yếu là dương bởi vì điện cực ngực trong các chuyển đạo này thì gần với đỉnh tim hơn, hướng của điện tích dương trong hầu hết quá trình khử cực.
3. Các chuyển đạo chi tăng cường
Một hệ thống các chuyển đạo khác được sử dụng rộng rãi là các chuyển đạo chi tăng cường. Trong loại ghi điện tâm đồ này, 2 trong số các chi được kết nối qua các điện trở với cực âm của máy ghi và chi thứ 3 được kết nối với cực dương của máy. Khi cực dương trên tay phải thì chuyển đạo được gọi là chuyển đạo aVR; khi cực dương trên tay trái thì được gọi là chuyển đạo aVL; và khi cực dương trên chân trái thì được gọi là chuyển đạo aVF.
Sự ghi lại bình thường của các chuyển đạo chi tăng cường được thể hiện trong Hình 10. Tất cả chúng đều tương tự với sự ghi lại của các chuyển đạo chi tiêu chuẩn, trừ việc ghi lại của chuyển đạo aVR thì bị đảo ngược. (Tại sao sự đảo ngược này xảy ra? Hãy tìm hiểu các kết nối có cực với máy ghi điện tim để xác định câu trả lời cho câu hỏi này nhé, rất dễ).
4. Sự hiển thị của điện tâm đồ
Các chuyển đạo thường hiển thị thành 3 nhóm như trong Hình 11: các chuyển đạo chi lưỡng cực tiêu chuẩn (I, II, III) theo sau bởi các chuyển đạo tăng cường (aVR, aVL và aVF) và sau đó là các chuyển đạo trước tim (V1 – V6).
5. Điện tâm đồ lưu động
Các ECGs tiêu chuẩn cung cấp một sự đánh giá về các sự kiện điện của tim trong một khoảng thời gian ngắn, thường là trong khi bệnh nhân nghỉ ngơi. Trong các điều kiện liên quan với các bất thường không thường xuyên nhưng quan trọng của các nhịp tim, có thể sẽ hữu ích nếu kiểm tra ECG trong một khoảng thời gian dài, bằng cách đó cho phép đánh giá các thay đổi trong các hiện tượng điện tạm thời của tim mà có thể bị bỏ qua với một ECG tiêu chuẩn lúc nghỉ. Mở rộng theo dõi ECG cho phép đánh giá các sự kiện điện của tim khi bệnh nhân đang đi lại trong suốt các hoạt động hằng ngày bình thường được gọi là điện tâm đồ lưu động.
Theo dõi điện tâm đồ lưu động thường được sử dụng khi một bệnh nhân có các triệu chứng mà được cho là gây ra bởi các loạn nhịp tim tạm thời hay các bất thường tại tim tạm thời khác. Những triệu chứng này có thể bao gồm đau ngực, ngất hay gần ngất, choáng và các nhịp tim bất thường (đánh trống ngực). Thông tin cần thiết để chẩn đoán các rối loạn nhịp tạm thời nghiêm trọng hay các tình trạng về tim khác là sự ghi lại của một ECG trong suốt thời gian chính xác mà triệu chứng diễn ra. Những thiết bị này có thể được sử dụng để phát hiện các rối loạn nhịp tim không triệu chứng như rung nhĩ mà có thể làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối, cuối cùng có thể gây đột quỵ. Bởi vì các thay đổi hằng ngày trong tần suất của các loạn nhịp là đáng kể nên việc phát hiện đòi hỏi phải có sự theo dõi điện tâm đồ lưu động trong suốt cả ngày.
Có một vài loại máy ghi điện tâm đồ lưu động. Các máy ghi liên tục (các máy theo dõi Holter), thường sử dụng trong 24 đến 48 giờ để khảo sát mối liên hệ giữa các triệu chứng và các sự kiện điện tâm đồ mà dường như xảy ra bên trong khoảng thời gian đó. Các máy ghi không liên tục được sử dụng trong các khoảng thời gian lâu hơn (nhiều tuần cho đến nhiều tháng) để cung cấp các sự ghi lại điện tâm đồ không liên tục, ngắn để phát hiện các sự kiện mà xảy ra không thường xuyên; những sự ghi lại này thường được khởi động bởi bệnh nhân khi mà trải qua các triệu chứng. Trong một số trường hợp, một thiết bị nhỏ, khoảng kích thước của một cái kẹp giấy lớn và được gọi là máy ghi vòng lặp có thể cấy được (implantable loop recorder), được cấy ngay dưới da ở ngực để theo dõi hoạt động điện của tim một cách liên tục trong khoảng thời gian từ 2 đến 3 năm. Thiết bị có thể được lập trình để khởi động quá trình ghi khi mà nhịp tim giảm xuống hoặc tăng lên trên một mức định trước, hoặc nó có thể được kích hoạt bằng tay bởi bệnh nhân khi một triệu chứng như choáng xảy ra. Các cải tiến trong công nghệ số thể rắn và các máy ghi được trang bị các vi xử lý bây giờ cho phép sự truyền liên tục hoặc cách quãng các dữ liệu điện tâm đồ số qua đường điện thoại và các hệ thống phần mềm phức tạp sẽ cung cấp sự phân tích dữ liệu bằng máy tính nhanh và trực tuyến khi thu được dữ liệu. Các thiết bị có thể đeo được mới hơn, bao gồm các đồng hồ hay các thiết bị theo dõi điện tâm đồ cầm tay cũng đang được phát triển để theo dõi nhịp tim tại nhà.
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!