Các khớp
Khớp giữa các xương đốt sống ở vùng lưng
Hai loại khớp chính giữa các xương đốt sống là:
– Khớp bán động giữa các thân đốt sống (Hình 1).
– Khớp hoạt dịch giữa các mỏm khớp (Hình 2).
Một xương đốt sống điển hình có tổng cộng 6 khớp với các xương đốt sống lân cận: 4 khớp hoạt dịch (hai trên, hai dưới) và hai khớp bán động (một trên, một dưới). Mỗi khớp bán động bao gồm một đĩa gian đốt sống.
Mặc dù vận động giữa bất kì hai xương đốt sống nào cũng đều bị giới hạn, nhưng tổng hợp tất cả các vận động này giữa tất cả đốt sống lại thì tạo ra một khoảng vận động lớn của cột sống.
Các vận động của cột sống bao gồm gập, ngửa, nghiêng ngoài, xoay và quay vòng.
Các vận động của các xương đốt sống ở một vùng nhất định (cổ, ngực và thắt lưng) được xác định bởi hình dạng và định hướng của các mặt khớp trên các mỏm khớp và trên các thân đốt sống.
Khớp bán động giữa các thân đốt sống (đĩa gian đốt sống)
Khớp bán động giữa các thân đốt sống lân cận được hình thành bởi một lớp sụn trong (sụn hyaline) trên mỗi thân đốt sống và một đĩa gian đốt sống nằm giữa các lớp sụn trong.
Đĩa gian đốt sống chứa một bao xơ bao bên ngoài, và bên trong là một nhân nhầy (Hình 1).
– Bao xơ chứa một vòng collagen bên ngoài bao quanh lấy một vùng sụn sợi rộng hơn sắp xếp theo dạng phiến. Sự sắp xếp này của các sợi giúp giới hạn sự xoay giữa các xương đốt sống.
– Nhân nhầy lấp đầy trung tâm của đĩa gian đốt sống thì sệt và hấp thu lực đè ép giữa hai đốt sống.
Sự thoái hóa vòng sợi có thể dẫn đến thoát vị nhân nhầy. Thoát vị nhân nhầy ra phía sau ngoài có thể đè lên rễ thần kinh gai sống trong lỗ gian đốt sống.
Khớp giữa các cung đốt sống (các khớp liên mấu)
Khớp hoạt dịch giữa mỏm khớp trên và dưới ở những đốt sống lân cận là khớp liên mấu (Hình 2). Một bao khớp mỏng dính vào các bờ của mặt khớp giúp đóng kín mỗi khớp.
Ở vùng cổ, khớp liên mấu này dốc xuống dưới từ trước ra sau và hình dạng của khớp giúp cho các các động tác gập và ngửa. Ở ngực, khớp định hướng thẳng đứng và hình dạng của khớp làm giới hạn động tác gập và ngửa, nhưng có thể xoay dễ dàng. Ở vùng thắt lưng, các mặt khớp cong và khít vào nhau một cách chắc chắn, vì thế vận động sẽ hạn chế, mặc dù gập và ngửa vẫn là những vận động chính ở vùng thắt lưng.
Các khớp mỏm móc-đốt sống
Bờ ngoài của mặt trên các đốt sống cổ điển hình thường nhô lên thành các mào hay các môi gọi là các mỏm móc. Những mỏm móc này khớp với thân đốt sống phía trên để hình thành nên một khớp hoạt dịch nhỏ là khớp mỏm móc-đốt sống (Hình 3).
Các dây chằng
Khớp giữa các xương đốt sống được tăng cường và hỗ trợ bởi một số dây chằng, chúng đi giữa các thân đốt sống và kết nối các thành phần của các cung đốt sống.
Dây chằng dọc trước và dây chằng dọc sau
Dây chằng dọc trước và dọc sau thì lần lượt ở phía trước và phía sau thân đốt sống và trải dài gần hết chiều dài của cột sống (Hình 4).
Dây chằng dọc trước bám ở phía trên vào nền sọ và mở rộng xuống phía dưới để bám vào mặt trước xương cùng. Trong suốt đường đi của nó, nó bám vào mặt trước các thân đốt sống và các đĩa gian đốt sống.
Dây chằng dọc sau ở trên mặt sau của thân đốt sống và lót mặt trước ống sống. Giống dây chằng dọc trước, nó bám vào thân đốt sống và đĩa gian đốt sống trên suốt đường đi. Phần trên dây chằng dọc sau giúp nối đốt sống cổ CII với mặt trong nền sọ được gọi là màng mái (Hình 5B).
Dây chằng vàng
Dây chằng vàng, ở mỗi bên, đi giữa các mảnh của các xương đốt sống kế cận (Hình 6). Những dây chằng này mảnh, rộng này cấu tạo chủ yếu bởi mô đàn hồi và hình thành nên một phần mặt sau của ống sống. Mỗi dây chằng vàng đi giữa mặt sau mảnh đốt sống của đốt sống bên dưới và đến mặt trước mảnh đốt sống của đốt sống phía trên. Dây chằng vàng giúp hạn chế sự tách ra của các mảnh đốt sống khi gập người và hỗ trợ vận động ngửa người về tư thế giải phẫu.
Dây chằng trên gai và dây chằng gáy
Dây chằng trên gai giúp kết nối và đi dọc theo đỉnh của các mỏm gai xương đốt sống từ đốt sống cổ CVII đến xương cùng (Hình 7). Từ đốt sống cổ VII đến xương sọ, dây chằng trở nên khác biệt về mặt cấu trúc và được gọi là dây chằng gáy.
Dây chằng gáy có hình tam giác, cấu trúc dạng tấm ở trên mặt phẳng đứng dọc giữa:
– Đáy tam giác bám vào xương sọ, từ ụ chẩm ngoài đến lỗ lớn xương sọ.
– Đỉnh tam giác bám vào đỉnh mỏm gai đốt sống cổ VII.
– Cạnh sâu của tam giác bám vào củ sau của đốt sống cổ I và mỏm gai của các đốt sống cổ khác.
Dây chằng gáy nâng đỡ cho đầu. Nó hạn chế sự gập đầu và giúp đưa đầu trở về tư thế giải phẫu. Các mặt bên rộng và bờ sau của dây chằng giúp cung cấp chỗ bám cho các cơ lân cận.
Dây chằng gian gai
Dây chằng gian gai đi giữa mỏm gai các đốt sống lân cận (Hình 8). Chúng bám từ nền đến đỉnh của mỗi mỏm gai xương đốt sống và hòa lẫn với dây chằng trên gai ở phía sau và dây chằng vàng mỗi bên ở phía trước.
Hệ thống cơ
Các cơ vùng lưng được tổ chức thành nhóm nông, nhóm trung gian và nhóm sâu.
Các cơ ở các nhóm nông và nhóm trung gian là các cơ ngoại lai bởi vì chúng có nguồn gốc phôi thai từ những vùng khác lưng. Chúng được chi phối bởi nhánh trước của các dây thần kinh gai sống.
– Nhóm cơ nông bao gồm các cơ liên quan đến các cử động của chi trên.
– Nhóm cơ trung gian bao gồm các cơ bám vào các xương sườn và có thể đóng vai trò trong chức năng hô hấp.
Các cơ nhóm sâu là các cơ nội tại bởi vì chúng phát triển ở tại vùng lưng. Chúng được chi phối bởi nhánh sau của các dây thần kinh gai sống và liên quan trực tiếp đến các vận động của cột sống và đầu.
Nhóm cơ nông vùng lưng
Các cơ thuộc nhóm nông thì nằm ngay dưới da và mạc nông (Hình 9 đến Hình 12). Chúng bám vào phần trên của hệ thống các xương chi (xương đòn, xương vai và xương cánh tay) đến hệ thống các xương trục (xương sọ, các xương sườn và cột sống). Bởi vì những cơ này chủ yếu liên quan đến sự vận động của các phần xương chi này, nên chúng đôi khi được gọi là nhóm cơ chi.
Các cơ ở vùng nông bao gồm cơ thang, cơ lưng rộng, cơ trám lớn, cơ trám bé và cơ nâng vai. Cơ trám lớn, cơ trám bé và cơ nâng vai nằm dưới cơ thang ở phần trên của lưng.
Cơ thang
Mỗi cơ thang là một cơ phẳng, hình tam giác, với đáy của tam giác nằm dọc theo cột sống (nguyên ủy của cơ) và đỉnh hướng về đỉnh vai (bám tận) (Hình 10 và Bảng 1).
Các sợi cơ phần trên của cơ thang, từ xương sọ và phần trên của cột sống, đi xuống để bám vào 1/3 ngoài của xương đòn và mỏm cùng vai của xương vai. Co những sợi cơ này sẽ làm nâng xương vai. Thêm vào đó, các sợi cơ trên và dưới co cùng nhau sẽ làm xoay phía ngoài của xương vai lên trên trong những động tác nâng chi trên qua đầu.
Chi phối vận động cho cơ thang là dây thần kinh phụ (XI), đi xuống từ cổ đến trên mặt sâu của cơ (Hình 11). Các sợi nhận cảm bản thể từ cơ thang đi trong các nhánh của đám rối cổ và đi vào tủy sống ở mức tủy sống C3 và C4.
Cấp máu cho cơ thang là từ nhánh nông của động mạch cổ ngang, nhánh cùng vai của động mạch trên vai và các nhánh lưng (nhánh sau) của các động mạch gian sườn sau.
Cơ lưng rộng
Cơ lưng rộng là một cơ dẹt, rộng và có hình tam giác, bắt đầu từ phần dưới của lưng và nhỏ lại khi đi lên trên để thành một gân hẹp bám vào xương cánh tay ở phía trước (Hình 9 đến Hình 12 và Bảng 1). Do đó, các vận động liên quan đến cơ này bao gồm duỗi, khép và xoay trong chi trên. Cơ lưng rộng cũng có thể giúp hạ thấp vai, ngăn cản chuyển động của vai lên trên.
Dây thần kinh ngực-lưng của đám rối cánh tay chi phối cho cơ lưng rộng. Liên quan đến dây thần kinh này là động mạch ngực-lưng, là nguồn cấp máu chủ yếu của cơ. Thêm vào đó là các động mạch nhỏ đến từ các nhánh lưng (nhánh sau) của các động mạch gian sườn sau và động mạch thắt lưng.
Cơ nâng vai
Cơ nâng vai là một cơ mảnh đi xuống từ mỏm ngang của các đốt sống cổ trên đến phần trên xương vai, tại bờ trong góc trên của xương vai (Hình 10, Hình 12 và Bảng 1). Nó giúp nâng xương vai và có thể hỗ trợ những cơ khác trong việc xoay phía ngoài xương vai xuống dưới.
Cơ nâng vai được chi phối bởi các nhánh từ nhánh trước của các dây thần kinh gai sống C3, C4 và dây thần kinh vai lưng và động mạch cấp máu của nó bao gồm các nhánh chủ yếu là từ các động mạch cổ ngang và động mạch cổ lên.
Cơ trám bé và cơ trám lớn
Hai cơ trám nằm dưới cơ nâng vai (Hình 12 và Bảng 1). Cơ trám bé nằm ở phía trên cơ trám lớn và là một cơ nhỏ hình trụ, xuất phát từ dây chằng gáy ở cổ và mỏm gai các đốt sống cổ CVII và ngực TI và bám vào bờ trong xương vai đối diện với gốc của gai xương vai.
Cơ trám lớn lớn hơn, xuất phát từ các mỏm gai của các đốt sống ngực trên và bám vào bờ trong xương vai ở dưới cơ trám nhỏ.
Hai cơ trám hoạt động cùng với nhau để kéo xương vai về phía cột sống. Cùng với những cơ khác chúng cũng có thể xoay cạnh ngoài xương vai xuống phía dưới.
Dây thần kinh vai lưng, một nhánh của đám rối cánh tay, chi phối cho cả hai cơ trám (Hình 13).
Nhóm cơ trung gian vùng lưng
Các cơ nhóm trung gian vùng lưng bao gồm hai tấm cơ mỏng ở vùng trên và vùng dưới của lưng, ngay dưới nhóm cơ nông (Hình 14 và Bảng 2). Các sợi cơ từ hai cơ răng sau này (cơ răng sau trên và cơ răng sau dưới) đi chéo ra ngoài từ cột sống để bám vào các xương sườn. Vị trí này cho thấy chức năng hô hấp của chúng và ở nhiều thời điểm những cơ này được xem như nhóm cơ hô hấp.
Cơ răng sau trên nằm dưới các cơ trám, ngược lại cơ răng sau dưới nằm dưới cơ lưng rộng. Cả hai cơ răng sau đều bám vào cột sống và các cấu trúc liên quan ở phía trong và đi xuống (các sợi cơ của cơ răng sau trên) hoặc đi lên (các sợi cơ của cơ răng sau dưới) để bám vào các xương sườn. Hai cơ này vì thế mà sẽ giúp nâng và hạ các xương sườn.
Các cơ răng sau được chi phối bởi các nhánh thành phần của nhánh trước các dây thần kinh gai sống. Cấp máu của chúng cũng theo từng phần tương tự như chi phối thần kinh nhờ các động mạch gian sườn.
Nhóm cơ sâu vùng lưng
Nhóm cơ sâu hay nhóm cơ nội tại của vùng lưng mở rộng từ xương chậu đến xương sọ và được chi phối bởi các nhánh thành phần của nhánh sau các dây thần kinh gai sống. Chúng bao gồm:
– Các cơ duỗi và các cơ xoay của đầu và cổ – cơ gối đầu và cơ gối cổ (các cơ gai-ngang).
– Các cơ duỗi và các cơ xoay cột sống – các cơ dựng sống và cơ ngang-gai.
– Các cơ ngắn – cơ gian gai và cơ gian ngang.
Mạch máu cung cấp cho nhóm cơ sâu này là thông qua các nhánh của các động mạch đốt sống, động mạch cổ sâu, động mạch chẩm, động mạch cổ ngang, động mạch gian sườn sau, động mạch dưới sườn, động mạch thắt lưng và động mạch cùng ngoài.
Mạc ngực-lưng
Mạc ngực-lưng che phủ cơ sâu vùng lưng và thân cơ thể (Hình 15). Lớp mạc này thì cần thiết trong sự tổ chức và tính toàn vẹn chung của vùng này:
– Phía trên, nó đi ra phía trước cơ răng sau và liên tục với mạc sâu ở vùng cổ,
– Ở vùng ngực, nó che phủ nhóm cơ sâu và phân tách chúng khỏi các nhóm cơ nông và cơ trung gian.
– Phía trong, nó bám vào mỏm gai các đốt sống ngực. Phía ngoài, chúng bám vào các góc của các xương sườn.
Vị trí bám phía trong của cơ lưng rộng và cơ chéo sau dưới hòa lẫn vào trong mạc ngực-lưng. Ở vùng thắt lưng, mạc ngực-lưng bao gồm ba lớp:
– Lớp sau dày và bám vào những mỏm gai của các đốt sống thắt lưng và các đốt sống cùng và dây chằng trên gai – từ vị trí bám này, nó mở ra bên ngoài để che phủ các cơ dựng sống.
– Lớp giữa bám vào đỉnh mỏm ngang của các đốt sống ngực và dây chằng gian ngang ở bên trong – phía dưới, nó bám vào mào chậu và, phía trên vào bờ dưới xương sườn XII.
– Lớp trước che phủ mặt trước của cơ vuông thắt lưng (một cơ của thành bụng sau) và bám ở bên trong vào mỏm ngang các đốt sống thắt lưng – phía dưới, nó bám vào mào chậu và phía trên nó hình thành nên dây chằng cung ngoài cho cơ hoành bám.
Lớp sau và lớp giữa của mạc ngực-lưng hợp vào nhau ở bờ ngoài của cơ dựng sống (Hình 7). Ở bờ ngoài của cơ vuông thắt lưng, lớp trước hợp thêm vào để hình thành nên gốc cân của cơ ngang bụng thuộc thành bụng.
Các cơ gai-ngang
Hai cơ gai-ngang chạy từ các mỏm gai và dây chằng gáy lên phía trên và ra bên ngoài (Hình 16 và Bảng 3):
– Cơ gối đầu là một cơ rộng bám vào xương chẩm và mỏm chũm của xương thái dương.
– Cơ gối cổ là một cơ hẹp bám vào mỏm ngang của các xương đốt sống cổ trên.
Khi các cơ gai-ngang co cùng nhau sẽ giúp kéo đầu về phía sau, duỗi cổ. Khi các cơ gai-ngang co riêng rẽ, mỗi cơ sẽ giúp xoay đầu về một bên – cùng bên với cơ đang co.
Các cơ dựng sống
Các cơ dựng sống là nhóm cơ nội tại vùng lưng lớn nhất . Các cơ nằm phía sau ngoài so với cột sống, giữa các mỏm gai ở bên trong và các góc sườn ở bên ngoài. Chúng được che phủ ở vùng ngực và vùng thắt lưng bởi mạc ngực-lưng và cơ chéo sau dưới, cơ trám và các cơ gối. Khối cơ khởi nguồn từ một gân rộng, dày bám vào xương cùng, mỏm gai của các đốt sống thắt lưng và ngực dưới và mào chậu (Hình 17 và Bảng 4). Chúng chia ra ở vùng thắt lưng trên thành 3 cột cơ dọc, mỗi cột cơ trong số chúng lại được chia ra thành những vùng khác nhau (thắt lưng, ngực, cổ và đầu), phụ thuộc vào nơi bám của cơ ở phía trên.
– Cột cơ phía bên ngoài nhất của các cơ dựng sống là cơ chậu-sườn, liên quan với các thành phần sườn và đi từ gân chung ban đầu đến bám vào các góc sườn và các mỏm ngang của các đốt sống cổ dưới.
– Cột cơ giữa hay cột cơ trung gian là cơ dài, là thành phần cơ lớn nhất trong các cơ dựng sống, đi từ gân chung đến nền xương sọ. Trong suốt chặng đi của cơ, cơ bám về phía bên ngoài vào các mỏm ngang khác nhau của các xương đốt sống khác nhau.
– Cột cơ trong nhất là cơ gai sống, là thành phần cơ nhỏ nhất và kết nối giữa các mỏm gai của các xương đốt sống lân cận. Cơ gai sống thì hằng định nhất ở vùng ngực và nhìn chung thì vắng mặt ở vùng cổ. Nó liên quan đến một cơ sâu hơn (cơ bán gai đầu) khi nhóm cơ dựng sống tiếp cận gần với xương sọ.
Các cơ trong nhóm cơ dựng sống là các cơ duỗi cột sống và duỗi đầu chủ yếu. Nếu chúng cùng co hai bên, chúng làm thẳng lưng, giúp lưng trở về tư thế thẳng từ tư thế gập người và kéo đầu về phía sau. Chúng cũng tham gia vào kiểm soát sự gập cột sống nhờ sự phối hợp co và giãn. Nếu chúng chỉ co một bên, chúng nghiêng cột sống về một bên. Thêm vào đó, co một bên đối với các cơ bám ở đầu thì giúp đưa đầu về phía bên co cơ.
Các cơ ngang-gai
Các cơ ngang-gai là những cơ đi chéo lên trên và vào trong từ các mỏm ngang đến các mỏm gai, giúp che phủ khoảng trống giữa mỏm ngang và mỏm gai (Hình 18 và Bảng 5). Chúng nằm dưới các cơ dựng sống và bao gồm 3 nhóm cơ chính – cơ bán gai, cơ nhiều nhánh và các cơ xoay.
– Các cơ bán gai là các cơ nông nhất trong nhóm cơ ngang-gai. Những cơ này bắt nguồn từ vùng ngực dưới và kết thúc bằng việc bám vào xương sọ, băng qua khoảng từ 4 đến 6 xương đốt sống từ nguyên ủy đến bám tận. Các cơ bán gai được tìm thấy ở các vùng ngực và cổ, và bám vào xương chẩm ở nền sọ.
– Sâu dưới cơ bán gai là nhóm cơ thứ hai, cơ nhiều nhánh. Các cơ trong nhóm này trải dài theo suốt chiều dài cột sống, đi từ một điểm nguyên ủy bên ngoài lên trên và vào trong để bám vào mỏm gai và trải dài trên khoảng 2 đến 4 xương đốt sống. Cơ nhiều nhánh xuất hiện trong suốt chiều dài cột sống nhưng phát triển nhất ở vùng thắt lưng.
– Các cơ xoay nhỏ là nhóm cơ sâu nhất của nhóm cơ ngang-gai. Chúng xuất hiện trong suốt chiều dài của cột sống nhưng phát triển nhất là ở vùng ngực. Các sợi cơ của nó đi lên trên và vào trong từ các mỏm ngang đến các mỏm gai qua 2 xương đốt sống (cơ xoay dài) hoặc bám vào xương đốt sống lân cận (cơ xoay ngắn).
Khi các cơ trong nhóm cơ ngang-gai co hai bên, chúng làm cột sống duỗi ra, một động tác giống như nhóm cơ dựng sống. Tuy nhiên, khi các cơ chỉ một bên co, chúng kéo mỏm gai về phía mỏm ngang ở một bên, làm thân xoay về bên đối diện.
Một cơ trong nhóm cơ ngang-gai, là cơ bán gai đầu có hoạt động riêng bởi vì chúng bám tận vào xương sọ. Khi co cơ hai bên, cơ này kéo đầu về phía sau, ngược lại khi co cơ một bên, cơ kéo đầu ra phía sau và xoay đầu, làm cho cằm di chuyển lên trên và xoay về phía bên co cơ. Những động tác này tương tự như cơ dựng sống trên.
Các cơ ngắn
Hai nhóm cơ ngắn (Hình 18 và Bảng 6) nằm sâu ở lưng và được chi phối bởi nhánh sau của các dây thần kinh gai sống.
– Nhóm đầu tiên của các cơ ngắn là các cơ nâng sườn, bắt nguồn từ mỏm ngang của các đốt sống CVII và TI đến TXI. Chúng chạy chéo xuống dưới và ra ngoài để bám vào củ sườn của xương sườn bên dưới. Co cơ làm nâng các xương sườn.
– Nhóm cơ thứ hai của các cơ ngắn là cơ ngắn thực thụ của vùng lưng – cơ gian gai, đi giữa hai mỏm gai lân cận và cơ gian ngang, đi giữa hai mỏm ngang lân cận. Những cơ tư thế này sẽ giúp ổn định các xương đốt sống lân cận trong suốt quá trình vận động của cột sống để cho phép các vận động hiệu quả hơn của các nhóm cơ lớn.
Các cơ dưới chẩm
Một nhóm cơ nhỏ của nhóm cơ sâu ở vùng cổ trên tại nền xương chẩm giúp vận động đầu. Chúng nối đốt sống cổ I (đốt sống đội) đến đốt sống cổ II (đốt sống trục) và và kết nối cả hai đốt sống đến nền sọ. Do vị trí của chúng nên chúng thường được gọi là các cơ dưới chẩm (Hình 18, Hình 19 và Bảng 7). Chúng bao gồm ở mỗi bên là:
– Cơ thẳng đầu sau lớn
– Cơ thẳng đầu sau bé
– Cơ chéo đầu dưới
– Cơ chéo đầu trên
Co các cơ dưới chẩm làm duỗi đầu và xoay đầu lần lượt ở các khớp tương ứng là khớp đội-chẩm và khớp đội-trục.
Các cơ dưới chẩm được chi phối bởi nhánh sau của dây thần kinh gai sống cổ đầu tiên, dây thần kinh này đi vào vùng giữa động mạch đốt sống và cung sau của đốt sống đội (Hình 19). Mạch máu cung cấp cho cơ trong vùng này là từ các nhánh của các động mạch đốt sống và động mạch chẩm.
Các cơ dưới chẩm hình thành nên ranh giới của tam giác dưới chẩm, một vùng chứa một vài cấu trúc quan trọng (Hình 19):
– Cơ thẳng đầu sau lớn hình thành nên bờ trong của tam giác.
– Cơ chéo đầu trên hình thành nên bờ ngoài
– Cơ chéo đầu dưới hình thành nên bờ dưới
Các thành phần của tam giác dưới chẩm bao gồm:
– Nhánh sau dây thần kinh CI
– Động mạch đốt sống
– Các tĩnh mạch
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!