IV. Các tác động phân tử
Nguyên nhân của béo phì có thể được tóm tắt trong một ứng dụng có vẻ đơn giản của định luật đầu tiên của nhiệt động lực học: Béo phì sinh ra khi lượng năng lượng (calories) ăn vào vượt quá mức năng lượng tiêu thụ. Tuy nhiên, cơ chế nền tảng của sự mất cân bằng này liên quan đến một sự tương tác phức tạp của các yếu tố hóa sinh, thần kinh, môi trường và tâm lý. Các con đường thần kinh và hormone cơ bản mà điều hòa sự thèm ăn, sự tiêu tốn năng lượng, và trọng lượng cơ thể liên quan đến các hệ thống mà điều hòa sự ăn vào thức ăn ngắn hạn (bữa ăn này qua bữa ăn khác) và các tín hiệu cho sự điều hòa trọng lượng cơ thể dài hạn (ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, năm này qua năm khác) (Hình 1).
A. Các tín hiệu dài hạn
Các tín hiệu dài hạn phản ánh trạng thái của các sự tích trữ chất béo (TAG).
1. Leptin: Leptin là một peptide hormone của tế bào mỡ mà được tạo ra và bài tiết tỷ lệ với kích thước của các tích trữ mỡ. Nó tác động lên não bộ để điều hòa thức ăn ăn vào và năng lượng tiêu tốn. Khi chúng ta tiêu thụ nhiều calories hơn lượng chúng ta cần, mỡ cơ thể tăng lên và sự sản xuất leptin bởi các tế bào mỡ tăng lên. Cơ thể thích nghi bằng cách tăng sử dụng năng lượng (tăng hoạt động) và làm giảm cảm giác thèm ăn (một tác động chán ăn). Khi mỡ cơ thể giảm, tác động đối nghịch xảy ra. Không may thay, hầu hết những người béo phì thì đề kháng với leptin và hệ thống leptin có lẽ hoạt động tốt hơn trong việc ngăn cản giảm cân hơn là ngăn cản tăng cân. (Chú ý: Các tác động của leptin được điều hòa thông qua sự liên kết với các thụ cảm thể trong nhân cung của vùng hạ đồi).
2. Insulin: Nhiều người béo phì cũng tăng insulin máu, như là một cơ chế đền bù đối với sự đề kháng insulin. Giống như leptin, insulin tác động lên các neurons vùng hạ đồi để ngăn cản cảm giác thèm ăn. (Xem loạt bài viết trước về tác động của insulin lên chuyển hóa).
B. Các tín hiệu ngắn hạn
Các tín hiệu ngắn hạn từ đường tiêu hóa kiểm soát cơn đói và cảm giác no, mà ảnh hưởng đến kích cỡ và số lượng bữa ăn trong một khoảng thời gian nhiều phút đến nhiều giờ. Trong sự vắng mặt của thức ăn ăn vào (giữa các bữa ăn), dạ dày sản xuất ghrelin, một homrone làm tăng sự thèm ăn (orexigenic hormone) (kích thích thèm ăn) mà điều khiển cơn đói. Khi thức ăn được tiêu thụ, các hormone đường tiêu hóa, bao gồm cholecystokinin và peptide YY, trong số nhiều hormones khác, gây ra sự no nê (một tác động làm chán ăn), bằng cách đó, kết thúc sự ăn, thông qua các hoạt động trên việc làm rỗng dạ dày và các tín hiệu thần kinh đến vùng hạ đồi. Bên trong vùng hạ đổi, các neuropeptides (như neuropeptide Y kích thích thèm ăn [orexigenic neuropeptide Y – NPY] và hormone kích thích tế bào hắc tố alpha [alpha-MSH] gây chán ăn) và các chất dẫn truyền thần kinh (như serotonin và dopamine gây chán ăn) thì quan trọng trong điều hòa sự đói và cảm giác no nê. Các tín hiệu dài hạn và ngắn hạn tương tác, đến mức độ khi leptin làm tăng sự bài tiết của alpha-MSH và làm giảm sự bài tiết của NPY. Vì thế, có nhiều vòng điều hòa phức tạp mà kiểm soát kích cỡ và số lượng của các bữa ăn trong mối liên hệ với trạng thái của các sự tích trữ mỡ cơ thể. (Chú ý: Alpha-MSH, một sản phẩm phân tách của proopiomelanocortin, liên kết với thụ cảm thể melanocortin-4 [MC4R]. Các đột biến mất chức năng của MC4R thì liên quan với sự khởi phát sớm của béo phì).
V. Các tác động chuyển hóa
Các tác động chuyển hóa chủ yếu của béo phì bao gồm rối loạn lipid máu, không dung nạp glucose, và đề kháng insulin biểu hiện chủ yếu trong gan, cơ xương và mô mỡ. Các bất thường chuyển hóa này phản ánh các tín hiệu phân tử có nguồn gốc từ tăng khối tế bào mỡ (xem Hình 4, bài viết trước và Hình 1). (Chú ý: Khoảng 30% những người béo phì không cho thấy các bất thường chuyển hóa này).
A. Hội chứng chuyển hóa (metabolic syndrome)
Béo phì bụng thì liên quan với một nhóm các bất thường chuyển hóa (tăng đường máu; đề kháng insulin, tăng insulin máu, rối loạn lipid máu gây xơ vữa [các mức cao của lipoprotein mật độ thấp (LDL) nhỏ, các mức thấp của lipoprotein mật độ cao (HDL) và tăng TAG] và tăng huyết áp) mà được gọi là hội chứng chuyển hóa (Hình 2). Nó là một yếu tố nguy cơ làm phát triển CVD và T2D. Viêm hệ thống kéo dài mức độ thấp được quan sát thấy cùng với béo phì đóng góp vào bệnh sinh của đề kháng insulin và T2D và dường như đóng một vai trò trong hội chứng chuyển hóa. Ở người béo phì, các tế bào mỡ giải phóng các trung gian gây viêm như IL-6 và TNF-alpha. Ngoài ra, các mức adiponectin, mà bình thường làm giảm viêm và nhạy cảm hóa các mô với insulin thì thấp.
B. Bệnh gan không do rượu
Béo phì và đề kháng insulin thì liên quan với sự phân giải lipid tăng lên của TAG WAT (mô mỡ trắng) và FA trong hệ thống tuần hoàn. Điều này dẫn đến sự lắng đọng lạc chỗ của TAG trong gan (nhiễm mỡ gan) và gây ra nguy cơ tăng lên đối với bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (nonalcoholic fatty liver disease – NAFLD).
VI. Béo phì và sức khỏe
Béo phì thì liên quan với nguy cơ tử vong tăng lên (Hình 3) và là một yếu tố nguy cơ đối với một số tình trạng mạn tính, bao gồm T2D, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, CVD, một số ung thư, sỏi mật, viêm khớp, gout, rối loạn nền chậu (như tiểu tiện không tự chủ), NAFLD và ngưng thở khi ngủ. Mối liên hệ giữa béo phì và các bệnh tật liên quan thì mạnh hơn ở những người tuổi <55. Sau tuổi 74, không có một mối liên hệ giữa BMI tăng lên và tỷ lệ tử vong. (Chú ý: Béo phì cũng có các kết cục xã hội [như bị bêu xấu và phân biệt đối xử]). Giảm cân ở những người béo phì dẫn đến huyết áp, TAG huyết tương và các mức glucose máu giảm. Các mức HDL cũng tăng lên.
VII. Sự giảm cân
Sự giảm cân có thể giúp làm giảm các biến chứng của béo phì. Để đạt được sự giảm cân, bệnh nhân béo phì phải giảm năng lượng ăn vào hoặc tăng tiêu tốn năng lượng, mặc dù làm giảm năng lượng ăn vào được cho là đóng góp nhiều hơn vào việc gây ra giảm cân. Thông thường, một kế hoạch cho giảm cân kết hợp với sự thay đổi trong chế độ ăn; tăng hoạt động thể chất; và điều chỉnh hành vi, mà có thể bao gồm giáo dục dinh dưỡng và lên kế hoạch bữa ăn, ghi lại lượng thức ăn ăn vào thông qua các nhật ký thức ăn, điều chỉnh các yếu tố mà dẫn đến ăn nhiều, và học lại các hướng dẫn để cảm thấy no. Các thuốc hay phẫu thuật có thể được khuyến cáo. Một khi giảm cân đạt được, sự duy trì cân nặng là một quá trình riêng biệt mà cần chú trọng bởi vì phần lớn các bệnh nhân tăng cân lại sau khi họ ngừng các nỗ lực giảm cân của họ.
A. Sự hạn chế calories
Chế độ ăn là tiếp cận thực tiễn thường gặp nhất để kiểm soát cân nặng. Bởi vì 1 lb mô mỡ tương ứng với khoảng 3500 kcal, nên tác động của việc hạn chế calories sẽ có lên lượng mô mỡ có thể được ghi nhận. Giảm cân bằng các chế độ ăn hạn chế calories được xác định chủ yếu bởi lượng calories ăn vào và không phải bởi thành phần dinh dưỡng. (Chú ý: Tuy nhiên, các khía cạnh thành phần dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến sự kiểm soát đường và chỉ số lipid máu). Sự hạn chế calories thì không hiệu quả trong một khoảng thời gian dài đối với nhiều người. Hơn 90% số người cố gắng giảm cân tăng cân lại khi sự can thiệp chế độ ăn bị ngừng lại. Tuy nhiên, mặc dù một số ít người sẽ đạt đến cân nặng lý tưởng của họ với điều trị, nhưng giảm 10% trọng lượng cơ thể trong một khoảng thời gian hơn 6 tháng thường làm giảm huyết áp và các mức lipid và tăng cường sự kiểm soát T2D.
B. Hoạt động thể lực
Một sự tăng lên trong hoạt động thể lực có thể tạo ra sự suy giảm năng lượng. Mặc dù bổ sung rèn luyện thể thao vào một phác đồ giảm calories có thể không tạo ra một sự giảm cân nhiều hơn ban đầu nhưng luyện tập thể thao là một yếu tố then chốt của chương trình hướng đến duy trì cân nặng. Ngoài ra, hoạt động thể chất làm tăng sức khỏe tim-phổi và làm giảm nguy cơ CVD, không phụ thuộc vào việc giảm cân. Những người mà kết hợp hạn chế calories và thể thao với điều trị hành vi có thể được dự đoán giảm khoảng 5% đến 10% trọng lượng cơ thể ban đầu trong một khoảng thời gian là 4 đến 6 tháng. Các nghiên cứu cho thấy rằng những người mà duy trì chương trình thể thao của họ sẽ tăng cân ít hơn sau sự giảm cân ban đầu của họ.
C. Điều trị bằng thuốc
Cục Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ đã chứng minh một vài thuốc giảm cân để sử dụng cho người trưởng thành. Chúng bao gồm orlistat (làm giảm sự hấp thu chất béo trong chế độ ăn), lorcaserin và phentermine trong sự kết hợp với topiramate (tăng cường cảm giác no thông qua truyền tín hiệu serotonin), liraglutide (một chất tương tự incretin, làm giảm cảm giác thèm ăn bằng cách hoạt hóa thụ cảm thể peptide giống glucagon 1 [glucagon-like peptide 1], xem Hình 7, bài viết trước) và bupropion trong sự kết hợp với naltrexone (tăng chuyển hóa bằng cách giảm cảm giác thèm ăn). Các tác động của chúng lên giảm cân có khuynh hướng vừa phải. (Chú ý: Sự hoạt hóa dược lý của các tế bào mỡ nâu đang được khám phá).
D. Điều trị phẫu thuật
Các phẫu thuật nối tắt và cắt một phần dạ dày thì hiệu quả trong việc gây ra giảm cân ở những người béo phì nặng. Thông qua các cơ chế mà vẫn chưa được hiểu rõ, các phẫu thuật này làm cải thiện một cách đáng kể sự kiểm soát đường huyết ở những người tiểu đường mắc béo phì bệnh tật. (Chú ý: Việc cấy một thiết bị mà kích thích điện thần kinh lang thang để làm giảm thức ăn ăn vào đã được chứng minh).
VIII. Tóm tắt loạt bài viết
- Béo phì, sự tích tụ quá mức mỡ trong cơ thể, xảy ra khi lượng năng lượng (calories) ăn vào vượt quá năng lượng tiêu thụ (Hình 26.9). Béo phì đang tăng lên ở những nước công nghiệp hóa do một sự giảm trong năng lượng tiêu tốn hằng ngày và một sự tăng lên trong năng lượng ăn vào do tăng sự có mặt sẵn của các thực phẩm ngon và rẻ.
- BMI thì dễ dàng được xác định và có liên quan nhiều với mỡ cơ thể. Gần 69% người trưởng thành Hoa Kỳ bị thừa cân (BMI ≥25) và >33% trong nhóm này là béo phì (BMI ≥30).
- Sự phân bố giải phẫu của mỡ cơ thể có một tác động chính là các nguy cơ sức khỏe liên quan. Mỡ quá mức nằm trong bụng (phần trên cơ thể, hình táo), như được phản ánh kích thước vòng eo, thì liên quan với nguy cơ lớn hơn của tăng huyết áp, đề kháng insulin, đái tháo đường, rối loạn lipid máu và bệnh tim mạch vành so với mỡ nằm ở hông và đùi (phần dưới cơ thể, hình lê).
- Trọng lượng của một người được xác định bởi các yếu tố di truyền và môi trường.
- Thèm ăn được tác động bởi các tín hiệu hướng tâm hay tín hiệu đến (nghĩa là các tín hiệu thần kinh, các hormone tuần hoàn như leptin, và các chất chuyển hóa) mà được tích hợp bởi vùng hạ đồi. Các tín hiệu đa dạng này tăng cường sự giải phóng của các peptides vùng hạ đồi (như NPY và alpha-MSH) và hoạt hóa các tín hiệu thần kinh ly tâm hay tín hiệu đi ra.
- Béo phì thì liên quan với một nguy cơ tử vong tăng lên và cũng là một yếu tố nguy cơ đối với một số tình trạng mạn tính.
- Giảm cân đạt được tốt nhất bởi cân bằng năng lượng âm, nghĩa là, bằng cách làm giảm lượng calories ăn vào và tăng cường hoạt động thể thao. Hầu như tất cả các chế độ ăn mà giới hạn các nhóm thực phẩm hay các chất dinh dưỡng đa lượng cụ thể sẽ dẫn đến giảm cân. Sự duy trì lâu dài của giảm cân thì khó có thể đạt được.
- Sự giảm rõ ràng trong lượng thức ăn ăn vào xảy ra với điều trị thuốc. Các phẫu thuật, như nối tắt dạ dày, được sử dụng để giới hạn lượng thức ăn ăn vào là một lựa chọn đối với bệnh nhân béo phì nặng mà không đáp ứng với các điều trị khác.
Các bạn có thể xem bài viết mới trên Facebook tại đây: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn có thể xem bài viết trước tại đây: https://docsachxyz.com/beo-phi-obesity-phan-1/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!