Các khớp
Khớp cổ tay (wrist joint)
Khớp cổ tay là một khớp hoạt dịch giữa đầu xa của xương quay và đĩa khớp phủ trên đầu xa của xương trụ với xương thuyền, xương nguyệt và xương tháp (Hình 1). Cùng với nhau, các mặt khớp của các xương cổ tay hình thành nên một diện hình bầu dục lồi, khớp với diện lõm tương ứng của xương quay và đĩa khớp.


Khớp cổ tay cho phép sự vận động quanh hai trục. Bàn tay có thể dạng, khép, gấp và duỗi ở khớp khuỷu.
Bởi vì mỏm trâm xương quay mở về phía xa hơn so với mỏm trâm xương trụ nên bàn tay có thể khép với một mức độ nhiều hơn so với việc nó có thể dạng.
Bao khớp của khớp cổ tay được tăng cường bởi các dây chằng quay-cổ tay gan bàn tay, trụ-cổ tay gan bàn tay và quay-cổ tay mu bàn tay (palmar radiocarpal, palmar ulnocarpal, and dorsal radiocarpal ligaments). Ngoài ra, các dây chằng bên quay và bên trụ (radial and ulnar collateral ligaments) của khớp cổ tay cũng trải trên khoảng cách giữa các mỏm trâm của xương quay và xương trụ với các xương cổ tay lân cận. Các dây chằng này giúp tăng cường cho các phía trong và phía ngoài của khớp cổ tay và hỗ trợ chúng trong suốt quá trình gấp và duỗi.
Các khớp xương cổ tay
Các khớp hoạt dịch giữa các xương cổ tay có chung một khoang khớp. Bao khớp của các khớp được tăng cường bởi nhiều dây chằng.
Mặc dù vận động ở các khớp xương cổ tay (carpal joints) (khớp gian xương cổ tay [intercarpal joints]) bị giới hạn nhưng các khớp vẫn đóng góp vào sự định vị của bàn tay trong các động tác dạng, khép, gấp và đặc biệt là duỗi.
Các khớp cổ-bàn (carpometacarpal joints)
Có năm khớp cổ-bàn giữa các xương bàn tay (đốt bàn tay) và hàng xa của các xương cổ tay liên quan (Hình 1).
Khớp hình yên ngựa (saddle joint), giữa xương bàn tay I và xương thang, giúp cho khoảng vận động rộng của ngón tay cái mà không phải là một đặc điểm của các ngón tay còn lại. Các vận động ở khớp cổ-bàn này là gấp, duỗi, dạng, khép, xoay và quay vòng (circumduction).
Các khớp cổ-bàn giữa các xương bàn tay II đến V và các xương cổ tay thì ít di động hơn nhiều so với khớp cổ-bàn của ngón tay cái, chỉ cho phép các vận động trượt giới hạn. Vận động của các khớp tăng lên ở phía trong, vì thế, xương bàn tay V trượt với mức độ lớn nhất. Điều này có thẻ được quan sát thấy trên mặt mu của bàn tay khi nó hình thành nên một nắm đấm.
Các khớp bàn-ngón (metacarpophalangeal joints)
Các khớp giữa các đầu xa của các xương bàn tay và các xương ngón tay gần của các ngón tay là các khớp lồi cầu (condylar joints), cho phép sự gấp, duỗi, dạng, khép, quay vòng và xoay giới hạn (Hình 1). Bao khớp của mỗi khớp được tăng cường bởi dây chằng gan tay (palmar ligament) và bởi các dây chằng bên (collateral ligaments) trong và ngoài.
Các dây chằng đốt bàn tay ngang sâu
Ba dây chằng đốt bàn tay ngang sâu (transverse metacarpal ligaments) (Hình 2) là các dải mô liên kết dày mà giúp kết nối các dây chằng gan tay của các khớp bàn-ngón của các ngón tay với nhau. Chúng có vai trò quan trọng bởi vì, bằng sự liên kết các đầu của các xương bàn tay với nhau, chúng hạn chế sự vận động của các xương này so với nhau. Kết quả, chúng giúp hình thành nên một hệ thống xương thống nhất cho gan bàn tay.

Đáng chú ý, một dây chằng đốt bàn tay ngang sâu không xuất hiện giữa dây chằng gan tay của khớp bàn-ngón của ngón cái và dây chằng gan tay của ngón trỏ. Sự vắng mặt của dây chằng này, và sự có mặt của khớp hình yên ngựa giữa xương bàn tay I và xương thang, thì chịu trách nhiệm cho sự tăng tính di động của ngón tay cái so với các ngón tay còn lại của bàn tay.
Các khớp gian ngón của bàn tay
Các khớp gian ngón (interphalangeal joints) của bàn tay là các khớp bản lề mà cho phép sự gấp và duỗi. Chúng được tăng cường bởi các dây chằng bên (collateral ligaments) trong và ngoài và các dây chằng gan tay (palmar ligaments).
Ống cổ tay và các cấu trúc ở cổ tay
Ống cổ tay được hình thành ở phía trước, tại khớp cổ tay bởi một cung sâu được hình thành bởi các xương cổ tay và mạc giữ gân cơ gấp (xem Hình 1).
Nền (đáy) của cung cổ tay được hình thành ở phía bên trong bởi xương đậu và móc của xương móc và ở phía bên ngoài bởi các củ của các xương thuyền và xương thang.
Mạc giữ gân cơ gấp là một dây chằng mô liên kết dày mà đi qua khoảng trống giữa các phía trong và ngoài của nền cung cổ tay và chuyển cung cổ tay thành ống cổ tay.
Bốn gân của cơ gấp chung các ngón tay sâu, bốn gân của cơ gấp chung các ngón tay nông và gân của cơ gấp dài ngón tay cái sẽ đi qua ống cổ tay, cũng như là thần kinh giữa (Hình 3).

Mạc giữ gân cơ gấp giúp giữ các gân ở mặt phẳng xương tại cổ tay và ngăn cản chúng không bị “nhô lên”.
Vận động tự do của các gân trong ống cổ tay được tạo điều kiện thuận lợi bởi các bao hoạt dịch, là thành phần bao quanh các gân. Tất cả các gân của cơ gấp chung các ngón tay sâu và cơ gấp các ngón tay nông được bao quanh bởi một bao hoạt dịch đơn; một bao riêng biệt bao quanh gân của cơ gấp dài ngón tay cái. Thần kinh giữa thì nằm phía trước các gân trong ống cổ tay.
Gân của của gấp cổ tay quay được bao quanh bởi một bao hoạt dịch và đi qua khoang dạng ống được hình thành bởi sự bám phía ngoài của mạc giữ gân cơ gấp vào các bờ của một rãnh trên mặt trong của củ xương thang.
Động mạch trụ, thần kinh trụ và gân của cơ gan tay dài đi vào trong bàn tay ở phía trước mạc giữ gân cơ gấp và vì thế, không đi qua ống cổ tay (Hình 3). Gân của cơ gan tay dài thì không được bao quanh bởi một bao hoạt dịch.
Động mạch quay đi ra phía sau, quanh mặt ngoài của cổ tay và nằm cạnh mặt ngoài của xương thuyền.
Các gân cơ duỗi đi vào trong bàn tay trên các mặt trong, ngoài và sau của cổ tay, trong sáu khoang được xác định bởi một mạc giữ gân cơ duỗi và được lót bởi các bao hoạt dịch (Hình 3):
- Các gân của cơ duỗi chung các ngón tay và cơ duỗi riêng ngón tay trỏ cùng nằm trong một khoang và bao hoạt dịch trên mặt sau của cổ tay.
- Các gân của cơ duỗi cổ tay trụ và cơ duỗi riêng ngón tay út có các khoang và các bao hoạt dịch riêng ở phía trong của cổ tay.
- Các gân của cơ dạng ngón tay cái dài và cơ duỗi ngón tay cái ngắn, cơ duỗi cổ tay quay dài và cơ duỗi cổ tay quay ngắn, và cơ duỗi ngón tay cái dài đi qua ba khoang trên mặt ngoài của cổ tay.
Cân gan tay
Cân gan tay (palmar aponeurosis) là một sự kết đặc lại của mạc sâu mà che phủ cho gan bàn tay và được nối với da trong các vùng xa (Hình 4).

Đỉnh của tam giác thì liên tục với gân cơ gan tay dài, nếu có; mặt khác, nó cũng được nối với mạc giữ gân cơ gấp. Từ vị trí này, các sợi tỏa ra thành các phần mở rộng ở các nền của các ngón tay mà nhô vào trong một trong số các ngón tay trỏ, giữa, nhẫn và út và, với một sự mở rộng ít hơn đến ngón tay cái.
Các sợi ngang giúp kết nối giữa các bó sắp xếp theo chiều dọc mà liên tục vào trong các ngón tay.
Các mạch máu, các dây thần kinh và các gân cơ gấp thì nằm sâu dưới cân gan tay trong gan bàn tay.
Cơ gan tay ngắn
Cơ gan tay ngắn (palmaris brevis), một cơ nội tại nhỏ của bàn tay là một cơ dưới da có hình tứ giác mà phủ trên các cơ mô út, động mạch trụ và nhánh nông của thần kinh trụ ở phía trong của gan bàn tay (Hình 4). Nó xuất phát từ cân gan tay và mạc giữ gân cơ gấp và bám tận vào trung bì của da trên bờ trong của bàn tay.
Cơ gan tay ngắn làm sâu hõm của gan bàn tay bằng cách kéo da phủ trên mô út và hình thành nên một gờ rõ. Điều này giúp cải thiện khả năng cầm nắm.
Cơ gan tay ngắn được chi phối thần kinh bởi nhánh nông của thần kinh trụ.
Hõm lào giải phẫu
“Hõm lào giải phẫu” (anatomical snuffbox) là một thuật ngữ được đặt cho hõm hình tam giác được hình thành trên phía sau-ngoài của cổ tay và xương bàn tay I bởi các gân duỗi đi vào trong ngón tay cái (Hình 5). Trong lịch sử, thuốc lá bột (ground tobacco [snuff]) được đặt trên hõm này trước khi được hít vào trong mũi. Đáy của tam giác là ở cổ tay và đỉnh thì hướng vào trong ngón tay cái. Hõm này rõ ràng nhất khi ngón tay cái được duỗi ra.

- Bờ ngoài được hình thành bởi các gân của cơ dạng ngón tay cái dài và cơ duỗi ngón tay cái ngắn.
- Bờ trong được hình thành bởi gân của cơ duỗi ngón tay cái dài.
- Nền của hõm được hình thành bởi xương thuyền và xương thang, và các đầu xa của các gân cơ duỗi cổ tay quay dài và gân cơ duỗi cổ tay quay ngắn.
Động mạch quay đi qua hõm lào giải phẫu, sâu dưới các gân cơ duỗi của ngón tay cái và nằm bên cạnh các xương thuyền và xương thang.
Các phần tận cùng của nhánh nông của thần kinh quay đi dưới da qua trên hõm lào giống như nguyên ủy của tĩnh mạch đầu từ cung tĩnh mạch mu tay của bàn tay.
Các bao sợi của ngón tay (fibrous digital sheaths)
Sau khi đi ra khỏi ống cổ tay, các gân của cơ gấp chung các ngón tay nông và cơ gấp chung các ngón tay sâu đi qua gan bàn tay và đi vào trong các bao xơ trên mặt gan tay của các ngón tay (Hình 6). Các bao sợi này:

- Bắt đầu ở phía gần và phía trước các khớp bàn-ngón và mở rộng đến các xương ngón tay xa;
- Được hình thành bởi các cung sơi và các dây chằng chéo (hình chữ thập), là các thành phần được nối ở phía sau vào các bờ của các xương ngón tay và vào các dây chằng gan tay liên quan với các khớp bàn-ngón và gian ngón.
- Giữ các gân vào mặt phẳng xương và ngăn cản các gân không bị “nhô lên” khi các ngón tay được gấp lại.
Bên trong mỗi bao sợi, các gân được bao quanh bởi một bao hoạt dịch. Các bao hoạt dịch của ngón tay cái và ngón tay út thì liên tục với các bao liên quan với các gân trong ống cổ tay (Hình 6).
Các trẽ gân cơ duỗi (extensor hoods)
Các gân của cơ duỗi chung các ngón tay và cơ duỗi ngón tay cái dài đi trên mặt sau của các ngón tay và mở rộng trên các xương ngón tay gần để hình thành nên các “trẽ gân cơ duỗi” (“extensor hoods” hoặc “dorsal digital expansions”) phức tạp (Hình 7A). Các gân của cơ duỗi riêng ngón tay út, cơ duỗi riêng ngón tay trỏ và cơ duỗi ngón tay cái ngắn hợp vào các trẽ gân này.

Mỗi trẽ gân cơ duỗi có hình tam giác, với:
- Đỉnh nối với xương ngón tay xa
- Vùng trung tâm nối với xương ngón tay giữa (ngón trỏ, giữa, nhẫn và út) hoặc xương ngón tay gần (ngón tay cái)
- Mỗi góc của đáy tam giác quấn quanh các bên của khớp bàn-ngón – trong các ngón trỏ, giữa, nhẫn và út, các góc của các trẽ bám chủ yếu vào các dây chằng đốt bàn tay ngang sâu; trong ngón tay cái, trẽ được nối ở mỗi bên với các cơ.
Ngoài các sự bám khác nhau, nhiều cơ nội tại của bàn tay cũng bám tận vào trong bờ tự do của trẽ ở mỗi bên. Bằng cách bám tận vào trong trẽ gân cơ duỗi, các cơ nội tại này chịu trách nhiệm cho các vận động tinh vi phức tạp của các ngón tay mà không thể được thực hiện bởi chỉ các gân cơ gấp và gân cơ duỗi dài.
Trong các ngón tay trỏ, giữa, nhẫn và út, các cơ giun, cơ gian cốt và cơ dạng riêng ngón tay út nối vào các trẽ gân cơ gấp. Trong ngón tay cái, cơ khép ngón tay cái và cơ dạng ngón tay cái ngắn bám tận vào và níu giữ lấy trẽ gân cơ duỗi.
Bởi vì lực từ các cơ nội tại nhỏ của bàn tay thì được thực hiện trên trẽ gân cơ duỗi ở phía xa điểm tựa của các khớp bàn-ngón nên các cơ sẽ làm gấp các khớp này (Hình 7B). Đồng thời, lực được truyền ở phía sau qua trẽ gân cơ gấp để duỗi các khớp gian ngón. Khả năng gấp các khớp bàn-ngón này, cùng lúc đó, duỗi các khớp gian ngón, hoàn toàn là do các cơ nội tại của bàn tay hoạt động thông qua các trẽ gân cơ duỗi. Loại vận động chính xác này được sử dụng trong “hành trình đi lên” (upstroke) khi viết một chữ “t” (Hình 7C).
Các bạn có thể xem bài viết mới trên Facebook tại đây: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn có thể xem bài viết trước tại đây: https://docsachxyz.com/giai-phau-vung-chi-tren-ban-tay-phan-1/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!