Bàn tay (Hình 1) là vùng chi trên ở phía xa của khớp cổ tay. Nó được phân chia thành ba phần:
- Cổ tay
- Đốt bàn tay
- Các ngón tay (năm ngón tay, bao gồm cả ngón tay cái)

Năm ngón tay bao gồm ngón cái nằm ở phía ngoài và phía trong ngón cái là bốn ngón tay trỏ, giữa, nhẫn và út.
Ở tư thế nghỉ ngơi bình thường, các ngón tay hình thành nên một cung gấp, với ngón tay út gấp nhiều nhất và ngón tay trỏ gấp ít nhất. Ở tư thế giải phẫu, các ngón tay được duỗi ra.
Bàn tay có một mặt trước (gan bàn tay) và một mặt sau (mu bàn tay).
Dạng và khép các ngón tay được xác định là so với trục dài của ngón giữa (Hình 1). Ở tư thế giải phẫu, trục dài của ngón tay cái được xoay một góc 90 độ so với các ngón tay còn lại để sao cho lòng đầu ngón tay cái (pad) hướng vào phía bên trong; kết quả, các vận động của ngón tay cái được xác định ở các góc vuông so với các vận động của các ngón tay khác của bàn tay.
Bàn tay là một công cụ cơ học và cảm giác. Nhiều trong số các đặc điểm của chi trên được cấu trúc để tạo điều kiện thuận lợi cho sự định vị của bàn tay trong không gian.
Các xương
Có 3 nhóm xương trong bàn tay:
- Tám xương cổ tay (carpal bones) là các xương của cổ tay.
- Năm xương đốt bàn tay (metacarpals) (I đến V) là các xương của bàn tay
- Các xương ngón tay (phalanges) là các xương của các ngón tay – ngón cái chỉ có hai xương ngón tay; các ngón tay còn lại thì có ba xương ngón tay (Hình 2).


Các xương cổ tay và các xương đốt bàn tay của các ngón tay trỏ, giữa, nhẫn và út (các xương đốt bàn tay II đến V) có khuynh hướng thực hiện chức năng như là một đơn vị duy nhất và hình thành nên hầu hết hệ thống xương của bàn tay. Xương đốt bàn tay của ngón cái thực hiện chức năng một cách độc lập và có sự tăng tính linh động ở khớp cổ-bàn để thực hiện đối ngón cái với các ngón khác.
Các xương cổ tay
Các xương cổ tay nhỏ của cổ tay được sắp xếp thành hai hàng, một hàng gần và một hàng xa, mỗi hàng chứa bốn xương (Hình 2).
Hàng gần (proximal row)
Từ ngoài vào trong và khi nhìn từ phía trước, hàng gần của các xương cổ tay bao gồm:
- Xương thuyền (scaphoid) có hình thuyền
- Xương nguyệt (lunate), có hình liềm
- Xương tháp (triquetrum) có ba mặt
- Xương đậu (pisiform) có hình hạt đậu (Hình 2).
Xương đậu là một xương vừng trong gân của cơ gấp cổ tay trụ và khớp với mặt trước của xương tháp.
Xương thuyền có một củ (tubercle) nổi bật trên mặt gan (trước) ngoài của nó mà được hướng ra phía trước.
Hàng xa (distal row)
Từ ngoài vào trong và khi nhìn từ phía trước, hàng xa của các xương cổ tay bao gồm:
- Xương thang (trapezium) có bốn mặt không đều
- Xương thê (trapezoid) có bốn mặt
- Xương cả (capitate), có một đầu
- Xương móc (hamate), có một móc (Hình 2).
Xương thang khớp với xương đốt bàn tay của ngón tay cái và có một củ rõ ràng trên mặt gan của nó mà nhô về phía trước.
Lớn nhất trong số các xương cổ tay là xương cả, khớp với nền của xương đốt bàn tay III.
Xương móc, nằm ở ngay phía ngoài và phía xa của xương đậu, có một móc rõ ràng (móc xương móc [hook of hamate]) trên mặt gan của nó mà nhô về phía trước.
Các mặt khớp
Các xương cổ tay có nhiều mặt khớp (Hình 2). Tất cả chúng khớp với nhau và các xương cổ tay trong hàng xa khớp với các xương đốt bàn tay của các ngón tay. Với ngoại lệ của xương đốt bàn tay ngón cái, tất cả các vận động của các xương bàn tay trên các xương cổ tay đều bị giới hạn.
Các mặt gần rộng của xương thuyền và xương nguyệt khớp với xương quay để hình thành nên khớp cổ tay.
Cung cổ tay (carpal arch)
Các xương cổ tay không nằm trong một mặt phẳng phẳng; thay vào đó, chúng hình thành nên một cung, mà đáy của cung được hướng ra phía trước (Hình 2). Phía ngoài của đáy này được hình thành bởi các củ của xương thuyền và xương thang. Phía trong được hình thành bởi xương đậu và móc của xương móc.
Mạc giữ gân cơ gấp nối vào và trải ra trên khoảng giữa, các phía trong và ngoài của đáy cung cổ tay để hình thành nên thành trước của một cấu trúc được gọi là ống cổ tay. Các bên và trần ống cổ tay được hình thành bởi cung của các xương cổ tay.
Các xương đốt bàn tay
Mỗi trong số năm xương đốt bàn tay thì sẽ liên quan với một ngón tay:
- Xương bàn tay I thì liên quan với ngón tay cái
- Xương bàn tay II đến V thì liên quan một cách lần lượt với các ngón tay trỏ, giữa, nhẫn và út (Hình 2).
Mỗi xương đốt bàn tay bao gồm một nền (base), một thân (shaft [body]) và ở phía xa, là một đầu (head).
Tất cả các nền của các xương đốt bàn tay khớp với các xương cổ tay; ngoài ra, các nền của các xương đốt bàn tay của các ngón tay cũng khớp với nhau.
Tất cả các đầu của các xương đốt bàn tay khớp với các xương ngón tay gần của các ngón tay. Các đầu hình thành nên các đốt trên mặt mu của bàn tay khi các ngón tay được gấp lại.
Các xương ngón tay
Các xương ngón tay là các xương của các ngón tay (Hình 2):
- Ngón tay cái có hai xương – một xương ngón tay gần (proximal phalanx) và một xương ngón tay xa (distal phalanx)
- Phần còn lại của các ngón tay có 3 xương ngón tay – một xương ngón tay gần (proximal phalanx), một xương ngón tay giữa (middle phalanx) và một xương ngón tay xa (distal phalanx).
Mỗi xương ngón tay có một nền (base), một thân (shaft [body]) và ở phía xa, là một đầu (head).
Nền của mỗi xương ngón tay gần khớp với đầu của xương đốt bàn tay liên quan.
Đầu của mỗi xương ngón tay xa thì không có tiếp khớp và phẳng thành lồi củ gan tay hình liềm, là thành phần nằm bên dưới mặt gan tay ở cuối ngón tay.
Các bạn có thể xem bài viết mới trên Facebook tại đây: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn có thể xem bài viết trước tại đây: https://docsachxyz.com/giai-phau-vung-chi-tren-cang-tay-phan-4/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!