Động mạch cấp máu
Động mạch chủ bụng (abdominal aorta) bắt đầu ở lỗ động mạch chủ của cơ hoành, phía trước bờ dưới của đốt sống TXII (Hình 1). Nó đi xuống dưới qua vùng bụng, phía trước các thân đốt sống, và vào thời điểm mà nó kết thúc ở mức đốt sống LIV thì nó hơi nằm bên trái đường giữa. Các nhánh tận của động mạch chủ bụng là hai động mạch chậu chung (common iliac artery).

1. Các nhánh trước của động mạch chủ bụng
Động mạch chủ bụng có các nhánh trước, bên và sau khi nó đi qua khoang bụng. Ba nhánh trước cấp máu cho các tạng đường tiêu hóa: thân tạng (celiac trunk), động mạch mạc treo tràng trên (superior mesenteric artery) và động mạch mạc treo tràng dưới (inferior mesenteric artery) (Hình 1).
Ruột nguyên thủy có thể được chia thành các vùng ruột trước, ruột giữa và ruột sau. Các giới hạn của các vùng này thì liên quan trực tiếp với các vùng phân bố của ba nhánh trước của động mạch chủ bụng (Hình 2).

- Ruột trước (foregut) bắt đầu với thực quản đoạn bụng và kết thúc ngay bên dưới nhú tá tràng lớn, ở điểm chính giữa dọc theo phần xuống của tá tràng. Nó bao gồm thực quản đoạn bụng, dạ dày, tá tràng (phía trên nhú tá tràng lớn), gan, tụy và túi mật. Lách cũng phát triển trong mối liên hệ với vùng ruột trước. Ruột trước được cấp máu bởi thân tạng.
- Ruột giữa (midgut) bắt đầu ngay bên dưới nhú tá tràng lớn, trong phần xuống của tá tràng và kết thúc ở chỗ nối giữa 2/3 gần và 1/3 xa của kết tràng ngang. Nó bao gồm tá tràng (phần dưới nhú tá tràng lớn), hỗng tràng, hồi tràng, manh tràng, ruột thừa, kết tràng lên và 2/3 phải của kết tràng ngang. Ruột giữa được cấp máu bởi động mạch mạc treo tràng trên (Hình 2).
- Ruột sau (hindgut) bắt đầu ngay trước góc kết tràng trái (chỗ nối giữa 2/3 gần và 1/3 xa của kết tràng ngang) và kết thúc ở điểm chính giữa ống hậu môn. Nó bao gồm 1/3 trái của kết tràng ngang, kết tràng xuống, kết tràng sigma, trực tràng và phần trên của ống hậu môn. Ruột sau được cấp máu bởi động mạch mạc treo tràng dưới (Hình 2).
a. Thân tạng (celiac trunk)
Thân tạng là nhánh trước của động mạch chủ bụng cấp máu cho phần ruột trước. Nó xuất phát từ động mạch chủ bụng ngay bên dưới lỗ động mạch chủ của cơ hoành (Hình 3), phía trước phần trên của đốt sống LI. Nó ngay lập tức chia thành các động mạch vị trái, động mạch lách và động mạch gan chung.

Động mạch vị trái (left gastric artery):
Động mạch vị trái (left gastric artery) là nhánh nhỏ nhất của thân tạng. Nó đi lên đến chỗ nối tâm vị – thực quản và gửi các các nhánh thực quản (esophageal branches) lên trên đến đoạn bụng của thực quản (Hình 3). Một số trong các nhánh này tiếp tục qua lỗ thực quản của cơ hoành và thông nối với các nhánh thực quản từ động mạch chủ ngực. Động mạch vị trái sau đó đi sang bên phải và đi xuống dọc theo đường cong nhỏ của dạ dày trong mạc nối nhỏ. Nó cấp máu cho cả hai mặt của dạ dày trong vùng này và thông nối với động mạch vị phải.
Động mạch lách (splenic artery):
Động mạch lách (splenic artery), nhánh lớn nhất của thân tạng, có một chặng đi cong sang bên trái dọc theo bờ trên của tụy (Hình 3). Nó đi trong dây chằng lách – thận và chia thành nhiều nhánh, các nhánh này đi vào trong rốn lách. Khi động mạch lách đi dọc theo bờ trên của tụy, nó cho ra nhiều nhánh nhỏ để cấp máu cho cổ, thân và đuôi của tụy (Hình 4).

Gần đến lách, động mạch lách cho ra các động mạch vị ngắn (short gastric arteries), các động mạch này đi qua dây chằng vị – lách để cấp máu cho đáy của dạ dày. Nó cũng cho ra động mạch vị – mạc nối trái (left gastro-omental artery), động mạch này chạy sang bên phải dọc theo đường cong lớn của dạ dày, và thông nối với động mạch vị – mạc nối phải.
Động mạch gan chung (common hepatic artery):
Động mạch gan chung (common hepatic artery) là một nhánh có kích thước trung bình của thân tạng mà chạy sang bên phải và chia thành 2 nhánh tận là động mạch gan riêng (hepatic artery proper) và động mạch vị – tá tràng (gastroduodenal artery) (Hình 3 và Hình 4).
Động mạch gan riêng đi lên về phía gan trong bờ tự do của mạc nối nhỏ. Nó chạy sang bên trái của ống mật chung và phía trước của tĩnh mạch cửa và chia thành các động mạch gan phải và trái (right hepatic artery and left hepatic artery) ở gần cửa gan (Hình 5). Khi động mạch gan phải gần gan, nó cho ra động mạch túi mật đến túi mật.

Động mạch vị phải (right gastric artery) thường xuất phát từ động mạch gan riêng nhưng nó cũng có thể xuất phát từ động mạch gan chung hoặc từ động mạch gan trái, động mạch vị – tá tràng hoặc động mạch trên tá tràng. Nó đi sang bên trái và đi lên trên dọc theo đường cong nhỏ của dạ dày trong mạc nối nhỏ, cấp máu cho các vùng lân cận của dạ dày và thông nối với động mạch vị trái.
Động mạch vị – tá tràng có thể cho ra động mạch trên tá tràng (supraduodenal artery) và cho ra động mạch tụy – tá tràng trên sau gần bờ trên của phần trên của tá tràng. Sau các nhánh này, động mạch vị – tá tràng tiếp tục đi xuống phía sau phần trên của tá tràng. Đến bờ dưới của phần trên tá tràng, động mạch vị – tá tràng chia thành các nhánh tận của nó là động mạch vị – mạc nối phải (right gastro-omental artery) và động mạch tụy – tá tràng trên trước (anterior superior pancreaticoduodenal artery) (Hình 4).
Động mạch vị – mạc nối phải đi sang bên trái, dọc theo đường cong lớn của dạ dày, cuối cùng thông nối với động mạch vị – mạc nối trái từ động mạch lách. Động mạch vị – mạc nối phải gửi các nhánh cả hai mặt của dạ dày và các nhánh khác đi xuống vào trong mạc nối lớn.
Động mạch tụy – tá tràng trên trước đi xuống và cùng với động mạch tụy – tá tràng trên sau cấp máu cho đầu tụy và tá tràng (Hình 4). Các mạch máu này cuối cùng sẽ thông nối với các nhánh trước và sau của động mạch tụy – tá tràng dưới.
b. Động mạch mạc treo tràng trên (superior mesenteric artery)
Động mạch mạc treo tràng trên là nhánh trước của động mạch chủ bụng cấp máu cho ruột giữa. Nó xuất phát từ động mạch chủ bụng ngay bên dưới động mạch tạng (Hình 6), phía trước phần dưới của đốt sống LI.

Động mạch mạc treo tràng trên được bắt chéo ở phía trước bởi tĩnh mạch lách và cổ tụy. Phía sau động mạch là tĩnh mạch thận trái, mỏm móc của tụy và phần dưới của tá tràng. Sau khi cho ra nhánh đầu tiên của nó (động mạch tụy – tá tràng dưới [inferior pancreaticoduodenal artery]), động mạch mạc treo tràng trên sẽ cho ra các động mạch hỗng tràng và hồi tràng (jejunal arteries and ileal arteries) ở phía bên trái của nó (Hình 6). Phân nhánh từ phía bên phải của thân chính động mạch mạc treo tràng trên là 3 mạch máu – động mạch kết tràng giữa (middle colic artery), động mạch kết tràng phải (right colic artery) và động mạch hồi – kết tràng (ileocolic artery) – các động mạch này cấp máu cho hồi tràng tận cùng, manh tràng, kết tràng lên và 2/3 kết tràng ngang.
Động mạch tụy – tá tràng dưới (inferior pancreaticoduodenal artery):
Động mạch tụy – tá tràng dưới là nhánh đầu tiên của động mạch mạc treo tràng trên. Nó phân chia ngay lập tức thành các nhánh trước và sau, các nhánh này đi lên theo các phía tương ứng của đầu tụy. Ở phía trên, các động mạch này thông nối với các động mạch tụy – tá tràng trên trước và sau (xem Hình 5 và Hình 6). Hệ thống động mạch này cấp máu cho đầu và mỏm móc của tụy và tá tràng.
Các động mạch hỗng tràng và hồi tràng (jejunal arteries and ileal arteries):
Ở phía xa của động mạch tụy – tá tràng dưới, động mạch mạc treo tràng trên cho ra nhiều nhánh. Xuất phát từ phía bên trái là một số lượng lớn các động mạch hỗng tràng và hồi tràng cấp máu cho hỗng tràng và hầu hết hồi tràng (Hình 7). Các nhánh này rời khỏi thân chính của động mạch, đi giữa 2 lớp của mạc treo tràng và hình thành nên các cung động mạch (arcades) thông nối khi chúng đi ra bên ngoài để cấp máu cho ruột non. Số lượng các cung động mạch tăng dần dọc theo chiều dài của ruột.

Có thể có cung động mạch đơn sau đó là cung động mạch kép ở khu vực hỗng tràng, cùng với một sự tăng lên liên tục về số lượng các cung động mạch khi đi vào và đi qua khu vực hồi tràng. Mở từ cung động mạch tận cùng là các động mạch thẳng (vasa recta), các động mạch này cung cấp sự chi phối mạch máu trực tiếp cuối cùng đến các thành của ruột non. Động mạch thẳng cấp máu cho hỗng tràng và thường dài và gần nhau, hình thành nên các cửa sổ hẹp có thể nhìn thấy trong mạc treo tràng. Động mạch thẳng cấp máu cho hồi tràng thì thường ngắn và xa nhau, hình thành nên các cửa sổ rộng hơn
Động mạch kết tràng giữa (middle colic artery):
Động mạch kết tràng giữa là nhánh đầu tiên trong 3 nhánh từ phía bên phải của thân chính động mạch mạc treo tràng trên (Hình 7). Xuất phát khi động mạch mạc treo tràng trên đi ra từ bên dưới tụy, động mạch kết tràng giữa đi vào mạc treo kết tràng ngang và phân chia thành các nhánh phải và trái. Nhánh phải thông nối với động mạch kết tràng phải trong khi đó nhánh trái thông nối với động mạch kết tràng trái, là một nhánh của động mạch mạc treo tràng dưới.
Động mạch kết tràng phải (right colic artery):
Tiếp tục về phía xa dọc theo thân chính của động mạch mạc treo tràng trên, động mạch kết tràng phải là nhánh thứ hai trong 3 nhánh phía bên phải của thân chính động mạch mạc treo tràng trên (Hình 6). Nó là một nhánh không cố định và đi sang bên phải theo hướng sau ngoài để cấp máu cho kết tràng lên. Đến gần kết tràng, nó phân chia thành một nhánh xuống, thông nối với động mạch hồi – kết tràng và một nhánh lên, thông nối với động mạch kết tràng giữa.
Động mạch hồi – kết tràng (ileocolic artery):
Nhánh cuối cùng xuất phát từ phía bên phải của động mạch mạc treo tràng trên là động mạch hồi – kết tràng (Hình 7). Nhánh này đi xuống dưới và sang bên phải về phía hố chậu phải nơi mà nó phân chia thành các nhánh trên và dưới.
- Nhánh trên đi lên trên dọc theo kết tràng lên để thông nối với động mạch kết tràng phải.
- Nhánh dưới tiếp tục đi về phía chỗ nối hồi – kết tràng, phân chia thành các nhánh kết tràng, manh tràng, ruột thừa và hồi tràng (colic, cecal, appendicular, and ileal branches) (Hình 7).
Các kiểu phân bố đặc trưng và gốc của các nhánh này thì khác nhau:
- Nhánh kết tràng đi đến kết tràng lên và đi lên trên để cấp máu cho phần đầu tiên của kết tràng lên.
- Các nhánh manh tràng trước và sau, xuất phát từ một thân chung hoặc từ các nhánh riêng rẽ, cấp máu cho các phía tương ứng của manh tràng.
- Nhánh ruột thừa đi vào bờ tự do của mạc treo ruột thừa và cấp máu cho mạc treo ruột thừa và ruột thừa.
- Nhánh hồi tràng đi sang bên trái và đi lên để cấp máu cho phần cuối cùng của hồi tràng trước khi thông nối với động mạch mạc treo tràng trên.
c. Động mạch mạc treo tràng dưới (inferior mesenteric artery)
Động mạch mạc treo tràng dưới là nhánh trước của động mạch chủ bụng cấp máu cho ruột sau. Nó là nhánh nhỏ nhất trong 3 nhánh trước của động mạch chủ bụng và xuất phát ở phía trước của thân đốt sống LIII. Ban đầu, động mạch mạc treo tràng dưới đi xuống ở phía trước động mạch chủ và sau đó đi sang bên trái khi nó tiếp tục đi xuống bên dưới (Hình 8). Các nhánh của nó bao gồm động mạch kết tràng trái (left colic artery), một vài động mạch kết tràng sigma (sigmoid arteries) và động mạch trực tràng trên (superior rectal artery).

Động mạch kết tràng trái (left colic artery):
Động mạch kết tràng trái là nhánh đầu tiên của động mạch mạc treo tràng dưới (Hình 8). Nó đi lên sau phúc mạc, phân chia thành các nhánh lên và các nhánh xuống.
- Nhánh lên đi ra phía trước so với thận trái, sau đó, đi vào mạc treo kết tràng ngang và đi lên trên để cấp máu cho phần trên của kết tràng xuống và phần xa của kết tràng ngang; nó thông nối với các nhánh của động mạch kết tràng giữa.
- Nhánh xuống đi xuống bên dưới, cấp máu cho phần dưới của kết tràng xuống và thông nối với động mạch kết tràng sigma đầu tiên.
Các động mạch kết tràng sigma (sigmoid arteries):
Các động mạch kết tràng sigma bao gồm 2 đến 4 nhánh, các nhánh này đi xuống sang bên trái, trong mạc treo kết tràng sigma, để cấp máu cho phần thấp nhất của kết tràng xuống và kết tràng sigma (Hình 8). Các nhánh này thông nối ở phía trên với các nhánh từ động mạch kết tràng trái và ở phía dưới với các nhánh từ động mạch trực tràng trên.
Động mạch trực tràng trên (superior rectal artery):
Nhánh tận của động mạch mạc treo tràng dưới là động mạch trực tràng trên (Hình 8). Mạch máu này đi xuống vào trong khoang chậu trong mạc treo kết tràng sigma, bắt chéo qua các mạch máu chậu chung trái. Đối diện với đốt sống SIII, động mạch trực tràng trên sẽ phân chia. Hai nhánh tận đi xuống dưới ở mỗi bên của trực tràng, phân chia thành các nhánh nhỏ hơn trong thành trực tràng. Các nhánh nhỏ hơn này tiếp tục đi xuống dưới đến mức cơ thắt hậu môn trong, lúc này chúng thông nối với các nhánh từ các động mạch trực tràng giữa (từ động mạch chậu trong) và các động mạch trực tràng dưới (từ động mạch thẹn trong).
Thoát máu tĩnh mạch
Thoát máu tĩnh mạch của lách, tụy, túi mật và phần bụng của đường tiêu hóa, trừ phần dưới của trực tràng là qua hệ thống các tĩnh mạch cửa, các tĩnh mạch này đưa máu từ các cấu trúc này đến gan. Một khi máu đi qua các xoang gan, nó sẽ đi qua các tĩnh mạch dần dần lớn hơn cho đến khi nó đi vào các tĩnh mạch gan, các tĩnh mạch này sẽ đưa máu tĩnh mạch trở về tĩnh mạch chủ dưới ngay bên dưới cơ hoành.
1. Tĩnh mạch cửa (portal vein)
Tĩnh mạch cửa (portal vein) là con đường chung cuối cùng trong việc vận chuyển máu tĩnh mạch từ lách, tụy, túi mật và phần bụng của đường tiêu hóa. Nó được hình thành bởi sự hợp nhất của tĩnh mạch lách (splenic vein) và tĩnh mạch mạc treo tràng trên (superior mesenteric vein) ở phía sau cổ tụy ở mức đốt sống LII (Hình 9).

Đi lên về phía gan, tĩnh mạch cửa đi phía sau phần trên của tá tràng và đi vào bờ phải của mạc nối nhỏ. Khi nó đi qua phần này của mạc nối nhỏ, nó nằm phía trước lỗ mạc nối và phía sau của cả ống mật chủ, nằm hơi phía bên phải của nó và động mạch gan riêng, nằm hơi phía bên trái của nó (xem Hình 5).
Khi gần đến gan, tĩnh mạch cửa phân chia thành các nhánh phải và trái, các nhánh này đi vào trong nhu mô gan. Các phụ lưu đổ vào tĩnh mạch cửa bao gồm:
- Các tĩnh mạch vị trái và vị phải (right and left gastric veins) thoát máu đường cong nhỏ dạ dày và thực quản đoạn bụng.
- Các tĩnh mạch túi mật (cystic veins) từ túi mật.
- Các tĩnh mạch cạnh rốn (para-umbilical veins), liên quan với tĩnh mạch rốn đã bịt kín và kết nối với các tĩnh mạch trên thành bụng trước (Hình 10).

a. Tĩnh mạch lách (splenic vein)
Tĩnh mạch lách hình thành từ nhiều mạch máu nhỏ hơn đi ra từ rốn lách (Hình 11). Nó đi sang bên phải, qua dây chằng lách – thận cùng với động mạch lách và đuôi tụy. Tiếp tục đi sang bên phải, tĩnh mạch lách thẳng, lớn có liên quan với thân tụy khi nó đi qua thành bụng sau. Phía sau cổ tụy, tĩnh mạch lách hợp với tĩnh mạch mạc treo tràng trên để hình thành nên tĩnh mạch cửa.

Các phụ lưu đổ vào tĩnh mạch lách bao gồm:
- Các tĩnh mạch vị ngắn (short gastric veins) từ đáy và phần bên trái của đường cong lớn dạ dày.
- Tĩnh mạch vị – mạc nối trái (left gastro-omental vein) từ đường cong lớn dạ dày.
- Các tĩnh mạch tụy (pancreatic veins) thoát máu thân và đuôi của tụy.
- Thường có cả tĩnh mạch mạc treo tràng dưới (inferior mesenteric vein).
b. Tĩnh mạch mạc treo tràng trên (superior mesenteric vein)
Tĩnh mạch mạc treo tràng trên thoát máu từ ruột non, manh tràng, kết tràng lên và kết tràng ngang (Hình 11). Nó bắt đầu ở hố chậu phải khi các tĩnh mạch thoát máu hồi tràng tận cùng, manh tràng và ruột thừa hợp lại và đi lên trong mạc treo tràng ở phía bên phải của động mạch mạc treo tràng trên.
Phía sau cổ tụy, tĩnh mạch mạc treo tràng trên hợp với tĩnh mạch lách để hình thành nên tĩnh mạch cửa.
Dưới dạng tĩnh mạch tương ứng đi kèm theo mỗi nhánh của động mạch mạc treo tràng trên, các phụ lưu đổ vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên bao gồm các tĩnh mạch hỗng tràng, hồi tràng, hồi – kết tràng, kết tràng phải và kết tràng giữa. Các nhánh phụ lưu khác bao gồm:
- Tĩnh mạch vị – mạc nối phải (right gastro-omental vein), thoát máu phần bên phải của đường cong lớn dạ dày.
- Các tĩnh mạch tụy – tá tràng dưới trước và sau (anterior and posterior inferior pancreaticoduodenal veins) đi dọc theo cạnh các động mạch có cùng tên; tĩnh mạch tụy – tá tràng trên trước thường đổ vào trong tĩnh mạch vị – mạc nối phải và tĩnh mạch tụy – tá tràng trên sau thường đổ trực tiếp vào trong tĩnh mạch cửa.
c. Tĩnh mạch mạc treo tràng dưới (inferior mesenteric vein)
Tĩnh mạch mạc treo tràng dưới (inferior mesenteric vein) thoát máu từ trực tràng, kết tràng sigma, kết tràng xuống và góc lách (splenic flexure) (Hình 11). Nó bắt đầu khi tĩnh mạch trực tràng trên (superior rectal vein) và đi lên, nhận các phụ lưu từ các tĩnh mạch kết tràng sigma và tĩnh mạch kết tràng trái (left colic vein). Tất cả các tĩnh mạch này đi kèm theo các động mạch cùng tên. Tiếp tục đi lên trên, tĩnh mạch mạc treo tràng dưới đi phía sau thân tụy và thường hợp với tĩnh mạch lách. Đôi khi, nó tận cùng ở chỗ nối của tĩnh mạch lách và tĩnh mạch mạc treo tràng trên.
Các mạch bạch huyết
Thoát dịch bạch huyết của phần bụng đường tiêu hóa xuống tận phần dưới của trực tràng, cũng như là lách, tụy, túi mật và gan là qua các mạch bạch huyết và các hạch bạch huyết mà cuối cùng sẽ tận cùng trong các tập hợp lớn của các hạch bạch huyết trước động mạch chủ (pre-aortic lymph nodes) ở các gốc của 3 nhánh trước của động mạch chủ bụng, các thành phần mà cấp máu cho các cấu trúc này. Các tập hợp hạch này vì thế được gọi là các nhóm hạch tạng, mạc treo tràng trên và mạc treo tràng dưới (celiac, superior mesenteric, and inferior mesenteric groups) của các hạch bạch huyết trước động mạch chủ. Dịch bạch huyết từ các tạng được chi phối bởi 3 chặng:

- Thân tạng (cho các cấu trúc là một phần ruột trước của bụng) thoát dịch đến các hạch trước động mạch chủ, gần gốc của thân tạng (Hình 12) – các hạch tạng này cũng nhận dịch bạch huyết từ các nhóm hạch mạc treo tràng trên và mạc treo tràng dưới của các hạch trước động mạch chủ và dịch bạch huyết từ các hạch tạng đổ vào trong bể dưỡng trấp (cisterna chyli).
- Động mạch mạc treo tràng trên (cho các cấu trúc là một phần ruột giữa của bụng) thoát dịch bạch huyết đến các hạch trước động mạch chủ, gần gốc của động mạch mạc treo tràng trên (Hình 12) – các hạch mạc treo tràng trên này cũng nhận dịch bạch huyết từ các nhóm hạch mạc treo tràng dưới của các hạch trước động mạch chủ và dịch bạch huyết từ các hạch mạc treo tràng trên thoát dịch vào trong các hạch tạng.
- Động mạch mạc treo tràng dưới (cho các cấu trúc là một phần ruột sau của bụng) thoát dịch đến các hạch trước động mạch chủ, gần gốc của động mạch mạc treo tràng dưới (Hình 12), và dịch bạch huyết từ các hạch mạc treo tràng dưới thoát dịch đến các hạch mạc treo tràng trên.
Chi phối thần kinh
Các tạng bụng được chi phối bởi cả các thành phần ngoại lai và nội tại của hệ thống thần kinh.
- Sự chi phối thần kinh ngoại lai liên quan đến việc nhận các xung động vận động từ và gửi thông tin cảm giác đến hệ thống thần kinh trung ương.
- Sự chi phối thần kinh nội tại liên quan đến sự điều hòa các hoạt động của đường tiêu hóa bởi một mạng lưới các neurons cảm giác và vận động nhìn chung là độc lập (hệ thống thần kinh ruột).
Các tạng bụng nhận sự chi phối thần kinh ngoại lai bao gồm phần bụng của đường tiêu hóa, lách, tụy, túi mật và gan. Các tạng này gửi thông tin cảm giác quay trở về hệ thần kinh trung ương thông qua các sợi hướng tâm tạng và nhận các xung động vận động từ hệ thống thần kinh trung ương thông qua các sợi ly tâm tạng.
Các sợi ly tâm tạng là một phần của các phần giao cảm và phó giao cảm của phần tự động của hệ thống thần kinh ngoại vi.
Các thành phần cấu trúc đóng vai trò như là các đường dẫn cho các sợi hướng tâm và ly tâm này bao gồm tương ứng là các rễ sau và rễ trước của tủy sống, các dây thần kinh gai sống, nhánh trước dây thần kinh gai sống, các nhánh thông trắng và thông xám, các thân giao cảm, các dây thần kinh tạng mang các sợi giao cảm (ngực, thắt lưng và cùng), các sợi phó giao cảm (chậu), đám rối trước sống và các hạch liên quan và các dây thần kinh lang thang [X].
Hệ thống thần kinh ruột bao gồm các neurons vận động và cảm giác trong hai đám rối liên kết với nhau trong các thành của đường tiêu hóa. Các neurons này kiểm soát sự co và giãn phối hợp của cơ trơn ruột và điều hòa sự bài tiết và lưu lượng máu dạ dày.
1. Các thân giao cảm (sympathetic trunks)
Các thân giao cảm là 2 dây thần kinh song song mở ra ở hai bên của cột sống từ nền sọ đến xương cụt (Hình 13). Khi chúng đi qua cổ, chúng nằm ở phía sau bao cảnh (carotid sheath). Trong vùng ngực trên, chúng nằm phía trước các cổ xương sườn, trong khi trong vùng ngực dưới thì chúng nằm ở phía ngoài của các thân đốt sống. Trong vùng bụng, chúng nằm phía trước ngoài so với các thân đốt sống thắt lưng và tiếp tục đi vào trong vùng chậu, chúng nằm phía trước xương cùng. Hai thân giao cảm gặp nhau ở phía trước xương cụt để hình thành nên hạch cụt (ganglion impar).

Trong suốt quá trình mở rộng của các thân giao cảm, các vùng nhô lên nhỏ có thể nhìn thấy được. Các tập hợp của các thân tế bào thần kinh bên ngoài hệ thống thần kinh trung ương này là các hạch giao cảm cạnh sống. Thường có:
- 3 hạch trong vùng cổ.
- 11 hoặc 12 hạch trong vùng ngực.
- 4 hạch trong vùng thắt lưng.
- 4 hoặc 5 hạch trong vùng cùng.
- Hạch cụt ở phía trước xương cụt (Hình 13).
Các hạch và các thân được kết nối với các dây thần kinh gai sống lân cận bởi các nhánh thông xám trên suốt chiều dài của thân giao cảm và bởi các nhánh thông trắng trong các phần ngực và thắt lưng trên của thân giao cảm (T1 đến L2). Các sợi thần kinh được tìm thấy trong các thân giao cảm bao gồm các sợi giao cảm trước hạch và sau hạch (preganglionic and postganglionic sympathetic fibers) và các sợi hướng tâm tạng (visceral afferent fibers).
a. Các dây thần kinh tạng (splanchnic nerves)
Các dây thần kinh tạng là các thành phần quan trọng trong sự chi phối thần kinh của các tạng bụng. Chúng đi từ thân giao cảm hoặc hạch giao cảm liên kết với thân giao cảm, đến đám rối trước sống và các hạch trước động mạch chủ bụng.
Có hai loại dây thần kinh tạng khác nhau, phụ thuộc vào loại sợi ly tâm tạng mà chúng mang:
- Các dây thần kinh tạng ngực, thắt lưng và cùng mang các sợi giao cảm trước hạch từ thân giao cảm đến các hạch trong đám rối trước sống và cũng mang các sợi hướng tâm tạng.
- Các sợi thần kinh tạng chậu mang các sợi phó giao cảm trước hạch từ các nhánh trước của các dây thần kinh gai sống S2, S3 và S4 đến một phần mở rộng của đám rối trước sống trong vùng chậu (đám rối hạ vị dưới hay đám rối chậu [inferior hypogastric plexus hay pelvic plexus]).
b. Các dây thần kinh tạng ngực (thoracic splanchnic nerves)
Các dây thần kinh tạng ngực (thoracic splanchnic nerves) đi từ các hạch giao cảm dọc theo thân giao cảm trong vùng ngực đến đám rối và các hạch trước sống liên quan với động mạch chủ bụng trong vùng bụng (Hình 14):

- Dây thần kinh tạng lớn xuất phát từ các hạch ngực thứ năm đến thứ chín (hoặc mười) và đi đến hạch tạng trong vùng bụng (một hạch trước sống liên quan với thân tạng).
- Dây thần kinh tạng nhỏ xuất phát từ các hạch ngực thứ chín và thứ mười (hoặc thứ mười và thứ mười một) và đi đến hạch chủ – thận.
- Dây thần kinh tạng nhỏ nhất, khi có, xuất phát từ hạch ngực thứ mười hai và đi đến đám rối thận.
c. Các dây thần kinh tạng thắt lưng và cùng (lumbar and sacral splanchnic nerves)
Thường có hai đến bốn dây thần kinh tạng thắt lưng (lumbar splanchnic nerves), các dây thần kinh này đi từ phần thắt lưng của thân giao cảm hoặc các hạch liên quan và đi vào trong đám rối trước sống (Hình 14).
Tương tự, các dây thần kinh tạng cùng (sacral splanchnic nerves) đi từ phần cùng của thân giao cảm hoặc các hạch liên quan đi vào đám rối hạ vị dưới, là một phần mở rộng của đám rối trước sống vào trong vùng chậu.
d. Các dây thần kinh tạng chậu (pelvic splanchnic nerves)
Các dây thần kinh tạng chậu (pelvic splanchnic nerves) (rễ phó giao cảm [parasympathetic root]) là khác biệt nhất. Chúng là dây thần kinh tạng duy nhất mà mang các sợi phó giao cảm. Nói cách khác, chúng không xuất phát từ các thân giao cảm. Thay vào đó, chúng xuất phát trực tiếp từ các nhánh trước của các dây thần kinh gai sống S2 đến S4. Các sợi phó giao cảm trước hạch xuất phát trong phần tủy sống cùng đi từ các dây thần kinh gai sống S2 đến S4 đến đám rối hạ vị dưới (Hình 14). Một khi ở trong đám rối này, một số trong số các sợi này sẽ đi lên trên, vào trong đám rối trước sống của vùng bụng và phân bố cùng với các động mạch cấp máu cho ruột sau. Điều này giúp cung cấp đường chi phối thần kinh của 1/3 xa của kết tràng ngang, kết tràng xuống và kết tràng sigma bởi các sợi phó giao cảm trước hạch.
2. Các hạch và đám rối trước sống của vùng bụng (abdominal prevertebral plexus and ganglia)
Đám rối trước sống của vùng bụng là một tập hợp các sợi thần kinh mà bao quanh động mạch chủ bụng và liên tục lên trên các nhánh chính của nó. Rải rác trên suốt chiều dài của đám rối trước sống của vùng bụng là các thân tế bào của các sợi giao cảm sau hạch. Một số trong số các thân tế bào này được tổ chức thành các hạch riêng biệt, trong khi các thân tế bào khác thì sẽ phân bố ngẫu nhiên hơn. Các hạch thường liên quan với các nhánh chuyên biệt của động mạch chủ bụng và được đặt tên theo các nhánh này.
Ba phần chính của đám rối trước sống của vùng bụng và các hạch liên quan là các đám rối tạng, động mạch chủ và hạ vị trên (Hình 15).

- Đám rối tạng là tập hợp lớn của các sợi và các hạch thần kinh liên quan với các gốc của thân tạng và động mạch mạc treo tràng trên ở ngay bên dưới lỗ động mạch chủ của cơ hoành. Các hạch liên quan với đám rối tạng bao gồm 2 hạch tạng, một hạch đơn mạc treo tràng trên và 2 hạch chủ – thận.
- Đám rối động mạch chủ bao gồm các sợi thần kinh và các hạch liên quan trên các mặt trước và ngoài của động mạch chủ bụng mở ra từ ngay bên dưới của gốc động mạch mạc treo tràng trên đến chỗ phân đôi của động mạch chủ thành 2 động mạch chậu chung. Hạch chính trong đám rối này là hạch mạc treo tràng dưới ở gốc của động mạch mạc treo tràng dưới.
- Đám rối hạ vị trên gồm nhiều hạch nhỏ và là phần cuối cùng của đám rối trước sống của vùng bụng trước khi đám rối trước sống liên tục vào trong khoang chậu.
Mỗi đám rối trong số các đám rối chính này sẽ cho ra một số đám rối thứ phát, các đám rối thứ phát này cũng có thể chứa nhiều hạch nhỏ. Các đám rối này cũng thường được đặt tên theo các mạch máu mà chúng liên quan. Ví dụ, đám rối tạng thường được mô tả là sẽ cho ra đám rối mạc treo tràng trên và đám rối thận, cũng như là các đám rối khác mà mở ra dọc theo các nhánh khác của thân tạng. Tương tự, đám rối động mạch chủ có các đám rối thứ phát bao gồm đám rối mạc treo tràng dưới, đám rối tinh hoàn và đám rối chậu ngoài.
Ở phía bên dưới, đám rối hạ vị trên phân chia thành các dây thần kinh hạ vị (hypogastric nerves), các dây thần kinh này đi xuống vào trong vùng chậu và đóng góp vào sự hình thành của đám rối hạ vị dưới hay đám rối chậu (Hình 15). Đám rối trước sống của vùng bụng nhận:
- Các sợi phó giao cảm trước hạch và các sợi hướng tâm tạng từ các dây thần kinh lang thang [X].
- Các sợi giao cảm trước hạch và các sợi hướng tâm tạng từ các dây thần kinh tạng ngực và thắt lưng.
- Các sợi phó giao cảm trước hạch từ các dây thần kinh tạng chậu.
3. Sự chi phối thần kinh phó giao cảm
Sự chi phối thần kinh phó giao cảm của phần bụng của đường tiêu hóa và của lách, tụy, túi mật và gan là từ 2 nguồn – các dây thần kinh lang thang [X] và các dây thần kinh tạng chậu.
a. Các dây thần kinh lang thang (vagus nerves)
Các dây thần kinh lang thang (vagus nerves) [X] đi vào trong vùng bụng trong sự liên quan với thực quản khi thực quản đi qua cơ hoành (Hình 16) và cung cấp sự chi phối phó giao cảm đến ruột trước và ruột giữa.

Sau khi đi vào trong vùng bụng dưới dạng các thân lang thang trước và sau (anterior and posterior vagal trunks), chúng gửi các nhánh đến đám rối trước sống của vùng bụng. Các nhánh này chứa các sợi phó giao cảm trước hạch và các sợi hướng tâm tạng, được phân bố cùng với các thành phần khác của đám rối trước sống dọc theo các nhánh của động mạch chủ bụng.
b. Các dây thần kinh tạng chậu (pelvic splanchnic nerves)
Các dây thần kinh tạng chậu (pelvic splanchnic nerves), mang các sợi phó giao cảm trước hạch từ các mức tủy sống S2 đến S4, đi vào trong đám rối hạ vị dưới trong vùng chậu. Một số trong số các sợi này đi lên trên vào trong phần mạc treo tràng dưới của đám rối trước sống trong vùng bụng (Hình 16). Một khi ở đó, các sợi này được phân bố cùng với các nhánh của động mạch mạc treo tràng dưới và cung cấp sự chi phối phó giao cảm cho ruột sau.
4. Hệ thống thần kinh ruột (enteric system)
Hệ thống thần kinh ruột là một phần thuộc phần tạng của hệ thống thần kinh và là một vòng thần kinh cục bộ trong thành của đường tiêu hóa. Nó bao gồm các neurons vận động và cảm giác được tổ chức thành 2 đám rối liên kết với nhau (đám rối cơ ruột và đám rối dưới niêm [myenteric and submucosal plexuses]) giữa các lớp của thành ống tiêu hóa và các sợi thần kinh liên quan mà đi giữa các đám rối và từ các đám rối đến mô lân cận (Hình 17).

Hệ thống thần kinh ruột điều hòa và phối hợp nhiều hoạt động của đường tiêu hóa, bao gồm hoạt động bài tiết của dạ dày, lưu lượng máu đường tiêu hóa và các chu kỳ co và giãn của cơ trơn (nhu động ruột [peristalsis]).
Mặc dù hệ thống thần kinh ruột nhìn chung là độc lập với hệ thống thần kinh trung ương nhưng nó vẫn nhận tín hiệu vào từ các neurons giao cảm sau hạch và các neuron phó giao cảm trước hạch mà điều chỉnh hoạt động của nó.
5. Sự chi phối giao cảm của dạ dày
Con đường chi phối thần kinh giao cảm của dạ dày là như sau:
- Một sợi giao cảm trước hạch bắt nguồn ở mức T6 của tủy sống đi vào trong rễ trước để rời khỏi tủy sống.
- Ở mức lỗ gian đốt sống, rễ trước (chứa sợi trước hạch) và một rễ sau hợp lại để hình thành nên một dây thần kinh gai sống.
- Bên ngoài cột sống, sợi trước hạch rời khỏi nhánh trước của dây thần kinh gai sống qua các nhánh thông trắng.
- Các nhánh thông trắng, chứa sợi trước hạch, kết nối với thân giao cảm.
- Đi vào trong thân giao cảm, sợi trước hạch không tiếp nối synap nhưng đi qua thân giao cảm và đi vào dây thần kinh tạng lớn.
- Dây thần kinh tạng lớn đi qua trụ cơ hoành và đi vào trong hạch tạng.
- Trong hạch tạng, sợi trước hạch tiếp nối synap với một neuron sau hạch.
- Sợi sau hạch hợp với đám rối các sợi thần kinh bao quanh thân tạng và tiếp tục đi dọc theo các nhánh của nó.
- Sợi sau hạch đi qua đám rối của các dây thần kinh kèm theo các nhánh của thân tạng mà chi phối cho dạ dày và cuối cùng đến điểm phân bố của nó.
- Tín hiệu vào từ hệ thống giao cảm có thể chỉnh sửa các hoạt động của đường tiêu hóa được kiểm soát bởi hệ thống thần kinh ruột.
Các bạn xem thêm các bài viết mới trên nhóm Facebook tại đây nhé: https://www.facebook.com/profile.php?id=61550892771585
Các bạn xem lại bài viết trước tại đây nhé: https://docsachxyz.com/giai-phau-cac-tang-trong-khoang-bung/
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!