Cơ hoành
Cơ hoành là một cấu trúc gân-cơ mỏng giúp bịt lỗ ngực dưới và chia khoang ngực với khoang bụng (Hình 1). Chúng bám ở xung quanh vào các cấu trúc:
- Mỏm mũi kiếm xương ức
- Bờ sườn của thành ngực
- Các đầu sườn XI và XII
- Các dây chằng băng qua các cấu trúc của thành bụng sau
- Các xương đốt sống vùng thắt lưng
Từ những chỗ bám ngoại vi này, các sợi cơ hội tụ vào một gân trung tâm. Màng ngoài tim thì bám vào phần giữa của gân trung tâm.
Trên mặt mặt đứng dọc giữa, cơ hoành dốc xuống dưới từ chỗ bám ở phía trước của nó vào mỏm mũi kiếm xương ức, gần mức đốt sống TVIII/IX, đến chỗ bám phía sau của nó vào dây chằng cung giữa, băng qua phía trước động mạch chủ ở gần mức đốt sống TXII.
Các cấu trúc đi giữa lồng ngực và ổ bụng sẽ đi qua cơ hoành hoặc giữa cơ hoành và các chỗ bám ngoại vi của nó:
- Tĩnh mạch chủ dưới đi qua gân trung tâm ở gần mức đốt sống TVIII.
- Thực quản đi qua phần cơ của cơ hoành, ngay bên trái đường giữa, gần mức đốt sống TX.
- Thần kinh lang thang đi qua cơ hoành cùng với thực quản.
- Động mạch chủ đi phía sau chỗ bám phía sau của cơ hoành ở mức đốt sống XII.
- Ống ngực đi phía sau cơ hoành cùng với động mạch chủ.
- Tĩnh mạch đơn và tĩnh mạch bán đơn cũng có thể đi qua lỗ động mạch chủ hoặc qua trụ cơ hoành.
Những cấu trúc khác nằm phía ngoài chỗ bám phía sau của cơ hoành, bên ngoài lỗ động mạch chủ bao gồm các thân giao cảm. Các dây thần kinh tạng lớn, tạng bé, và tạng bé nhất xuyên qua trụ cơ hoành.
1. Cấp máu động mạch
Động mạch cấp máu cho cơ hoành là từ các mạch máu xuất phát từ phía trên và phía dưới nó (Hình 1). Từ phía trên, các động mạch cơ hoành và động mạch ngoại tâm mạc-hoành cung cấp máu cho cơ hoành. Những mạch máu này là các nhánh của động mạch ngực trong. Các động mạch hoành trên, xuất phát trực tiếp từ các phần dưới của động mạch chủ ngực và các nhánh nhỏ từ động mạch gian sườn cũng đóng góp vào cấp máu cơ hoành. Các động mạch lớn nhất cấp máu cho cơ hoành xuất phát từ bên dưới nó. Những động mạch này là các động mạch hoành dưới, phân nhánh trực tiếp từ động mạch chủ bụng.
2. Thoát máu tĩnh mạch
Thoát máu tĩnh mạch của cơ hoành là nhờ các tĩnh mạch đi song song với động mạch. Những tĩnh mạch này thoát máu vào:
- Các tĩnh mạch cánh tay – đầu ở cổ
- Hệ thống các tĩnh mạch đơn
- Các tĩnh mạch bụng (tĩnh mạch thượng thận trái và tĩnh mạch chủ dưới).
3. Chi phối thần kinh
Cơ hoành được chi phối bởi các dây thần kinh hoành (C3, C4 và C5), các thành phần này xuyên qua cơ hoành và chi phối cho nó từ phía mặt bụng.
Sự co của các vòm hoành làm phẳng cơ hoành, bằng cách này, làm tăng thể tích lồng ngực. Các vận động của cơ hoành thì cần thiết cho một quá trình hô hấp bình thường.
Các vận động của thành ngực và cơ hoành trong suốt quá trình thở
Một trong những chức năng chủ yếu của thành ngực và cơ hoành là thay đổi thể tích lồng ngực và bằng cách đó, giúp đưa không khí vào và ra khỏi phổi.
Trong suốt quá trình thở, các chiều của lồng ngực thay đổi theo các hướng dọc, ngang và trước-sau. Sự nâng lên và hạ xuống của cơ hoành làm thay đổi đáng kể chiều dọc của lồng ngực. Sự hạ xuống của cơ hoành được thực hiện khi các sợi cơ của cơ hoành co lại. Sự nâng lên xảy ra khi cơ hoành giãn ra.
Sự thay đổi kích thước theo chiều trước-sau và chiều ngang của lồng ngực xuất phát từ sự nâng lên và hạ xuống của các xương sườn (Hình 2). Các đầu sau của các xương sườn khớp với cột sống, ngược lại đầu trước của hầu hết xương sườn khớp với xương ức hoặc các xương sườn lân cận.
Bởi vì đầu sườn trước nằm thấp hơn so với đầu sườn sau, nên khi các xương sườn nâng lên, chúng di chuyển xương ức lên trên và ra trước. Cũng lúc này, góc giữa thân và cán xương ức trở nên có thể trở nên tù hơn (ít nhọn hơn). Khi các xương sườn hạ xuống, xương ức di chuyển xuống dưới và ra sau. Vận động kiểu “cán tay cầm máy bơm nước” này làm thay đổi các chiều của lồng ngực theo hướng trước-sau (Hình 2A).
Khi đầu trước của các xương sườn nằm ở thấp hơn so với đầu sau thì phần giữa của thân các xương sườn nằm thấp hơn so với hai đầu sườn. Khi các thân sườn nâng lên, các phần giữa của các thân sườn di chuyển ra phía bên ngoài. Vận động kiểu “quai xô xách nước” này làm tăng chiều ngang lồng ngực (Hình 2B).
Bất cứ các cơ nào bám vào các xương sườn đều có thể giúp di chuyển một xương sườn so với các xương sườn khác và vì thế đóng vai trò như các cơ hô hấp phụ. Các cơ ở vùng cổ và bụng có thể cố định hoặc thay đổi vị trí của các xương sườn trên và dưới.
Các khoang màng phổi
Hai khoang màng phổi, nằm mỗi bên trung thất, bao quanh các phổi (Hình 3):
- Phía trên, chúng mở lên phía trên xương sườn I vào trong nền cổ.
- Phía dưới, chúng mở đến mức ngay trên bờ sườn
- Thành trong của mỗi khoang màng phổi là trung thất.
1. Các màng phổi
Mỗi khoang màng phổi được lót bởi một lớp tế bào dẹt là tế bào trung biểu mô và một lớp mô liên kết nâng đỡ liên quan; cùng với nhau, chúng hình thành nên màng phổi.
Màng phổi được chia thành hai loại chính, dựa trên vị trí:
- Màng phổi liên quan đến thành các thành của khoang màng phổi là màng phổi thành (Hình 3).
- Màng phổi mà lật lên từ thành trong lên trên bề mặt phổi là màng phổi tạng (Hình 3), màng này dính vào và che phủ cho phổi.
Mỗi khoang màng phổi là một khoang ảo, nằm giữa màng phổi thành và tạng. Chúng bình thường chứa một lớp rất mỏng dịch giống huyết thanh. Do đó, bề mặt phổi được che phủ bởi màng phổi tạng sẽ đối diện trực tiếp và trượt tự do trên màng phổi thành bám vào thành ngực.
a. Màng phổi thành
Các tên được đặt cho màng phổi thành thì tương ứng với các phần trên thành ngực mà chúng liên quan (Hình 4):
- Màng phổi liên quan đến các xương sườn và các khoang gian sườn được gọi là phần sườn
- Màng phổi che phủ cho cơ hoành được gọi là phần hoành
- Màng phổi che phủ cho trung thất được gọi là phần trung thất
- Lớp hình vòm của màng phổi thành lót phần mở rộng vào vùng cổ của khoang màng phổi được gọi là màng phổi cổ (hay vòm của màng phổi).
Che phủ mặt trên của màng phổi cổ là một lớp mạc riêng biệt hình vòm, màng trên màng phổi (Hình 4). Màng mô liên kết này nối ở phía ngoài với bờ trong xương sườn I và ở phía sau với mỏm ngang đốt sống cổ CVII. Phía trên, màng nhận các sợi cơ từ một vài cơ sâu ở vùng cổ (các cơ bậc thang), các cơ này đóng vai trò giữ cho màng căng lên. Màng trên màng phổi cung cấp sự hỗ trợ cho phần đỉnh của khoang màng phổi ở nền cổ.
Ở vùng của các đốt sống ngực TV đến TVII, màng phổi trung thất lật khỏi trung thất, tạo ra một cấu trúc dạng ống giúp che phủ cho các cấu trúc (đường dẫn khí, các mạch máu, các dây thần kinh và bạch huyết) đi giữa phổi và trung thất. Cấu trúc hình ống này và các cấu trúc mà nó chứa hình thành nên gốc phổi. Gốc phổi hợp với mặt trong của phổi ở một vùng được gọi là rốn phổi. Ở đây, màng phổi trung thất liên tục với màng phổi tạng.
Màng phổi thành được chi phối bởi các sợi hướng tâm của dây thần kinh cảm giác thân thể. Màng phổi sườn được chi phối bởi các nhánh từ các dây thần kinh gian sườn và đau sẽ được cảm nhận ở thành ngực. Màng phổi hoành và màng phổi trung thất được chi phối chủ yếu bởi các dây thần kinh hoành (xuất phát từ các mức tủy sống C3, C4 và C5). Đau từ những vùng này sẽ quy chiếu đến các đốt bì của C3, C4 và C5 (vùng cổ ngoài và vùng trên đòn của vai).
Các giới hạn xung quanh của màng phổi thành:
Các giới hạn xung quanh của màng phổi thành xác định độ rộng của các khoang màng phổi (Hình 5).
Phía trên, khoang màng phổi có thể nhô lên đến 3 đến 4 cm phía trên sụn sườn đầu tiên nhưng không nhô lên trên cổ sườn I. Giới hạn này được tạo ra bởi sự dốc xuống phía dưới của xương sườn I để khớp với cán xương ức.
Phía trước, các khoang màng phổi tiếp cận nhau ở phía sau phần trên xương ức. Tuy nhiên, ở phía sau phần dưới xương ức, màng phổi thành không đến gần đường giữa ở phía bên trái như phía bên phải do trung thất giữa, chứa màng ngoài tim, nhô về phía bên trái.
Phía dưới, màng phổi sườn lật lên trên cơ hoành ở phía trên bờ sườn. Trên đường trung đòn, khoang màng phổi mở xuống phía dưới đến gần mức xương sườn VIII. Trên đường nách giữa, nó mở đến xương sườn X. Từ vị trí này, bờ dưới đi hơi ngang, qua các xương sườn XI và XII để đến đốt sống ngực TXII.
b. Màng phổi thành
Màng phổi tạng liên tục với màng phổi thành ở rốn của mỗi phổi, nơi mà các cấu trúc đi vào và đi ra khỏi phổi. Màng phổi tạng thì được dính chắc vào bề mặt phổi, bao gồm cả những mặt phổi ở các khe giúp phân chia các thùy phổi.
Mặc dù màng phổi tạng được chi phối bởi các dây thần kinh hướng tâm tạng mà đi kèm với các mạch máu phế quản nhưng cảm giác đau thường không được tạo ra từ mô này.
c. Các khe màng phổi
Các phổi không hoàn toàn lấp đầy các vùng trước hoặc dưới sau của các khoang màng phổi (Hình 6). Điều này làm hình thành nên các khe, nơi mà hai màng phổi thành gặp nhau. Sự mở rộng của phổi vào trong những khe này thường xảy ra chỉ trong quá trình hít vào gắng sức; các khe cũng cung cấp các khoang ảo mà dịch có thể tích tụ ở đó và từ đó dịch có thể được hút ra ngoài.
Các khe sườn – trung thất:
Phía trước, một khe sườn – trung thất sẽ xuất hiện ở mỗi bên tại nơi mà phần màng phổi sườn gặp màng phổi trung thất. Lớn nhất là ở phía bên trái, trong vùng che phủ tim (Hình 6).
Các khe sườn – hoành:
Khe lớn nhất và có vai trò quan trọng trên lâm sàng nhất là khe sườn – hoành, nằm giữa màng phổi sườn và màng phổi hoành (Hình 6). Các khe sườn hoành là các vùng nằm giữa bờ dưới của các phổi và bờ dưới của các khoang màng phổi. Chúng sâu nhất là khi thở ra gắng sức và nông nhất khi hít vào gắng sức.
Trong suốt quá trình hô hấp nhẹ nhàng, bờ dưới của phổi đi qua xương sườn VI trên đường trung đòn và xương sườn VIII trên đường nách giữa và sau đó đi hơi ngang để đến cột sống ở mức đốt sống ngực TX. Vì vậy, từ đường trung đòn và quanh thành ngực đến cột sống, bờ dưới của phổi có thể được xác định gần đúng bởi một đường chạy giữa xương sườn VI, xương sườn VIII và đốt sống ngực X. Bờ dưới của khoang màng phổi ở các điểm tương ứng là xương sườn VIII, xương sườn X và đốt sống ngực TXII. Khe sườn – hoành chính là vùng nằm giữa hai bờ.
Trong suốt quá trình thở ra, bờ dưới của phổi lên cao và khe sườn hoành trở nên rộng hơn.
2. Các phổi
Hai phổi là các cơ quan hô hấp và nằm hai bên của trung thất, được bao quanh bởi các khoang màng phổi phải và trái. Không khí đi vào và rời khỏi các phổi thông qua các phế quản chính, là các nhánh của khí quản.
Các động mạch phổi vận chuyển máu nghèo oxy đến các phổi từ thất phải của tim. Máu giàu oxy trở về nhĩ trái thông qua các tĩnh mạch phổi.
Phổi phải bình thường hơi lớn hơn so với phổi trái bởi vì trung thất giữa, chứa tim, lồi về phía bên trái nhiều hơn so với bên phải.
Mỗi phổi có hình dạng nửa hình nón, với 1 đáy, 1 đỉnh, 2 mặt và 3 bờ (Hình 7).
- Đáy phổi nằm trên cơ hoành
- Đỉnh phổi nhô lên trên xương sườn I và vào trong nền cổ.
- Hai mặt – mặt sườn nằm ngay cạnh các xương sườn và các khoang gian sườn của thành ngực. Mặt trung thất nằm ngay cạnh trung thất ở phía trước và cột sống ở phía sau và chứa rốn phổi hình dấu phẩy, mà thông qua đó các cấu trúc đi vào và đi ra khỏi phổi.
- Ba bờ – bờ dưới của phổi thì sắc và phân tách nền phổi với mặt sườn của phổi. Các bờ trước và bờ sau phân tách mặt sườn với mặt trong của phổi. Không giống bờ trước và bờ dưới (đều là các bờ sắc), bờ sau thì trơn láng và tù.
Các phổi nằm ngay cạnh và bị ấn lõm bởi các cấu trúc nằm trong khu vực bao phủ của phổi. Tim và các mạch máu lớn hình thành nên các vị trí lồi trong trung thất và ấn lõm vào các mặt trong của các phổi; các xương sườn ấn lõm vào các mặt sườn của các phổi. Về mặt bệnh học, như các khối u hay các bất thường trong một cấu trúc nào đó có thể ảnh hưởng đến các cấu trúc liên quan.
a. Gốc phổi và rốn phổi
Gốc của mỗi phổi là một tập hợp dạng ống ngắn của các cấu trúc giúp nối phổi với các cấu trúc trong trung thất (Hình 8). Nó được che phủ bởi một ống của màng phổi trung thất, thành phần mà lật lên trên bề mặt phổi để trở thành màng phổi tạng. Vùng được giới hạn bởi sự lật của màng phổi lên mặt trong của phổi là rốn phổi, nơi các cấu trúc đi vào và đi ra khỏi phổi.
Một tấm nhỏ hình lưỡi kiếm chĩa xuống dưới từ gốc phổi và mở rộng từ rốn phổi đến trung thất. Cấu trúc này là dây chằng phổi.
Nó có thể làm ổn định vị trí của thùy dưới và cũng có thể điều hòa sự chuyển vị lên xuống của các cấu trúc trong gốc phổi trong suốt quá trình hít thở.
Trong trung thất, các dây thần kinh lang thang đi ngay sau các gốc phổi, trong khi các dây thần kinh hoành đi ngay trước các gốc phổi.
Bên trong mỗi gốc phổi và nằm trong rốn phổi là:
- Một động mạch phổi
- Hai tĩnh mạch phổi
- Một phế quản chính
- Các mạch máu phế quản
- Các dây thần kinh
- Các mạch bạch huyết
Nói chung, động mạch phổi thì nằm cao hơn tại rốn phổi, các tĩnh mạch phổi thì nằm phía dưới và các phế quản thì hơi ở sau.
Phía bên phải, phế quản thùy đến thùy trên thì phân nhánh từ phế quản chính ở gốc phổi, không giống phía bên trái, nơi mà nó phân nhánh thì nằm ở phía bên trong phổi và phía trên động mạch phổi.
b. Phổi phải
Phổi phải có 3 thùy và 2 khe (Hình 9A). Bình thường, các thùy có thể di động một cách tự do so với nhau bởi vì chúng được chia ra (gần như là đến rốn phổi) bởi các sự lõm sâu vào của màng phổi tạng. Sự lõm sâu này hình thành nên các khe:
- Khe chếch phân chia thùy dưới với thùy trên và thùy giữa của phổi phải.
- Khe ngang phân chia thùy trên với thùy giữa.
Vị trí gần đúng của khe chếch trên bệnh nhân khi hô hấp nhẹ nhàng có thể được xác định bởi một đường cong trên thành ngực bắt đầu từ gần mức mỏm gai của đốt sống ngực TIV của cột sống, đi qua khoang gian sườn thứ 5 ở bên ngoài và sau đó theo đường cong của xương sườn VI ở phía trước.
Khe ngang đi theo khoang gian sườn thứ 4 từ xương ức cho đến khi gặp khe chếch khi nó đi qua xương sườn V.
Định hướng của các khe chếch và khe ngang giúp xác định nơi mà các bác sĩ sẽ nghe tiếng phổi trên mỗi thùy.
Mặt lớn nhất của thùy trên thì tiếp xúc với phần trên của thành ngực trước-ngoài và đỉnh của thùy này nhô vào trong nền cổ. Bề mặt của thùy giữa chủ yếu nằm cạnh phần dưới của thành ngực trước và thành ngực ngoài. Mặt sườn của thùy dưới tiếp xúc với các thành ngực sau và dưới.
Khi nghe tiếng phổi từ mỗi thùy, việc xác định vị trí đặt ống nghe trên thành ngực thì rất quan trọng bởi vì liên quan đến các vị trí của các thùy phổi ở bên dưới.
Mặt trong của phổi phải nằm cạnh một số cấu trúc quan trọng trong trung thất và nền cổ (Hình 9B). Những cấu trúc này bao gồm:
- Tim
- Tĩnh mạch chủ dưới
- Tĩnh mạch chủ trên
- Tĩnh mạch đơn
- Thực quản
Cung động mạch và tĩnh mạch dưới đòn phải đi qua và liên quan đến thùy trên của phổi phải khi chúng đi qua vòm của màng phổi cổ và vào trong vùng nách.
c. Phổi trái
Phổi trái thì nhỏ hơn phổi phải và có 2 thùy phân chia bởi khe chếch (Hình 10A). Khe chếch của phổi thì hơi chếch hơn so với phổi phải.
Trong suốt quá trình hô hấp bình thường, vị trí gần đúng của khe chếch có thể xác định bởi một đường cong trên thành ngực mà bắt đầu từ giữa các mỏm gai của các đốt sống ngực TIII và TIV, đi qua khoang gian sườn thứ 5 ở bên ngoài và đi theo đường cong xương sườn VI ở phía trước.
Giống như với phổi phải, định hướng của khe chếch giúp xác định vị trí nghe tiếng phổi cho mỗi thùy.
Mặt lớn nhất của thùy trên thì tiếp xúc với phần trên của thành ngực trước-ngoài và đỉnh của thùy này nhô vào trong nền cổ. Mặt sườn của thùy dưới thì tiếp xúc với các thành ngực sau và dưới.
Khi nghe tiếng phổi từ mỗi thùy, ống nghe nên được đặt lên các vùng thành ngực tương ứng với các vị trí của các thùy phổi bên dưới.
Phần dưới của mặt trong phổi trái, không giống như phổi phải, bị khuyết bởi vì tim nhô vào trong khoang màng phổi từ trung thất giữa.
Từ bờ trước của phần dưới thùy trên, một phần phổi giống lưỡi nhô ra phủ lấy lồi tim (lưỡi phổi trái).
Mặt trong của phổi trái nằm ngay cạnh một số cấu trúc quan trọng của trung thất và nền cổ (Hình 10B). Những cấu trúc này bao gồm:
- Tim
- Cung động mạch chủ
- Động mạch chủ ngực
- Thực quản
Cung động mạch và tĩnh mạch dưới đòn trái đi qua và liên quan đến thùy trên phổi trái khi chúng đi qua vòm của màng phổi cổ và vào nách.
d. Cây phế quản
Là một cấu trúc ống linh động mở từ mức đốt sống cổ CVI trong vùng cổ dưới đến mức đốt sống ngực TIV/V trong trung thất, nơi mà chúng phân đôi thành phế quản chính phải và trái (Hình 11). Khí quản được giữ mở nhờ những vòng sụn ngang hình chữ C vùi trong thành khí quản – chỗ hở của chữ C hướng ra phía sau. Vòng sụn khí quản thấp nhất có cấu trúc hình móc, được gọi là cựa (carina), nhô ngược vào giữa gốc của hai phế quản chính tại đường giữa. Thành sau của khí quản được tạo thành chủ yếu từ cơ trơn.
Mỗi phế quản chính đi vào gốc của một phổi và đi qua rốn phổi để vào trong phổi tương ứng. Phế quản chính phải rộng hơn và đứng hơn khi qua gốc và rốn phổi so với phế quản chính trái (Hình 11A). Vì vậy, các dị vật hít phải có khuynh hướng kẹt thường xuyên hơn ở phía bên phải so với bên trái.
Phế quản chính chia ra ở bên trong phổi thành phế quản thùy (phế quản cấp 2), mỗi phế quản thùy sẽ chi phối đến một thùy. Phía bên phải, phế quản thùy đến thùy trên xuất phát từ bên trong gốc phổi.
Phế quản thùy phân nhánh hơn nữa thành các phế quản phân thùy (phế quản cấp 3), chi phối cho các phân thùy phế quản-phổi (Hình 11B).
Trong mỗi phân thùy phế quản-phổi, các phế quản phân thùy phân chia nhiều lần và cuối cùng, thành các tiểu phế quản, thành phần này sau đó chia nhỏ hơn nữa và chi phối cho các bề mặt hô hấp. Các thành của các phế quản được giữ mở nhờ các đĩa sụn dọc không liên tục, nhưng chúng sẽ không xuất hiện trong các tiểu phế quản.
e. Các phân thùy phế quản – phổi
Một phần thùy phế quản-phổi là một vùng phổi được chi phối bởi một phế quản phân thùy và nhánh động mạch phổi kèm theo của nó.
Các nhánh của tĩnh mạch phổi có xu hướng đi giữa và quanh các bờ của các phân thùy.
Mỗi phân thùy phế quản-phổi có hình dạng giống như một hình nón không đều, với đỉnh là ở gốc phế quản phân thùy và đáy hướng ra phía ngoài lên trên bề mặt phổi.
Một phân thùy phế quản-phổi là một vùng độc lập về mặt chức năng nhỏ nhất của phổi và là vùng phổi nhỏ nhất có thể phân tách và loại bỏ mà không ảnh hưởng đến vùng phổi lân cận.
Có 10 phân thùy phế quản-phổi trong mỗi phổi (Hình 12); một vài trong số chúng sẽ kết hợp lại ở trong phổi trái.
f. Các động mạch phổi
Động mạch phổi phải và trái bắt nguồn từ thân động mạch phổi và mang máu nghèo oxy đến các phổi từ thất phải của tim (Hình 13).
Chỗ phân đôi của thân động mạch phổi xảy ra ở bên trái đường giữa, ngay dưới mức đốt sống ngực TIV/V và về phía bên trái chỗ phân đôi khí quản ở phía trước-dưới.
Động mạch phổi phải:
Động mạch phổi phải dài hơn so với động mạch phổi trái và đi ngang qua trung thất (Hình 13). Nó đi:
- Phía trước và hơi dưới so với chỗ tách đôi của khí quản và phía trước của phế quản chính phải.
- Phía sau so với động mạch chủ lên, tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch phổi phải trên.
Động mạch phổi phải đi vào gốc phổi và cho một nhánh lớn đến thùy trên của phổi. Thân mạch máu chính tiếp tục qua rốn phổi, cho một nhánh thứ hai (nhánh quặt ngược) đến thùy trên và sau đó chia ra để cấp máu cho các thùy giữa và dưới.
Động mạch phổi trái:
Động mạch phổi trái ngắn hơn so với động mạch phổi phải và nằm phía trước động mạch chủ lên và sau tĩnh mạch phổi trên (Hình 13). Nó đi qua gốc và rốn phổi và phân nhánh ở bên trong phổi.
g. Các tĩnh mạch phổi
Mỗi bên có một tĩnh mạch phổi trên và một tĩnh mạch phổi dưới, mang máu giàu oxy từ các phổi quay trở lại tim (Hình 13). Các tĩnh mạch bắt nguồn ở rốn phổi, đi qua gốc phổi và ngay lập tức đổ vào nhĩ trái.
h. Các động mạch và tĩnh mạch phế quản
Các động mạch và tĩnh mạch phế quản (Hình 13) cấu thành nên hệ thống mạch máu dinh dưỡng của các mô phổi (các thành và các tuyến phế quản, các thành của các mạch máu lớn và màng phổi tạng). Chúng kết nối ở bên trong phổi với các nhánh của các động mạch và các tĩnh mạch phổi.
Các động mạch phế quản bắt nguồn từ động mạch chủ ngực hoặc một trong các nhánh của nó.
- Một động mạch phế quản phải đơn bình thường xuất phát từ động mạch gian sườn sau thứ 3 (nhưng đôi khi, nó bắt nguồn từ động mạch phế quản trái trên).
- Hai động mạch phế quản trái xuất phát trực tiếp từ mặt trước của động mạch chủ ngực – động mạch phế quản trái trên xuất phát ở mức đốt sống ngực TV và một nhánh dưới xuất phát ở dưới phế quản chính trái.
Các động mạch phế quản chạy trên các mặt sau của các phế quản chính và phân nhánh trong các phổi để cấp máu cho các mô phổi.
Các tĩnh mạch phế quản thoát vào:
- Các tĩnh mạch phổi hoặc nhĩ trái.
- Tĩnh mạch đơn ở phía bên phải hoặc tĩnh mạch gian sườn trên hoặc tĩnh mạch bán đơn ở phía bên trái.
i. Chi phối thần kinh
Các cấu trúc của phổi và màng phổi tạng được chi phối bởi nhánh hướng tâm và ly tâm tạng, được phân bố thông qua đám rối phổi trước và đám rối phổi sau (Hình 14). Những đám nối này liên kết với nhau và nằm ở phía trước và phía sau chỗ phân đôi của khí quản và các phế quản chính. Đám rối trước thì nhỏ hơn nhiều so với đám rối sau.
Các nhánh của những đám rối này về nguồn gốc thì là xuất phát từ các thân giao cảm và các dây thần kinh lang thang, được phân bố dọc theo các nhánh của đường dẫn khí và mạch máu.
Các sợi li tâm tạng từ:
- Các dây thần kinh lang thang làm co các tiểu phế quản
- Hệ thống giao cảm làm giãn các tiểu phế quản
j. Thoát dịch bạch huyết
Các mạch bạch huyết nông, hay dưới màng phổi, và sâu của phổi đổ vào các hạch bạch huyết gọi là các hạch khí-phế quản quanh các gốc của các phế quản thùy và phế quản chính và dọc theo hai bên của khí quản (Hình 15). Giống như một nhóm, những hạch bạch huyết này mở rộng từ bên trong phổi, qua rốn phổi và gốc phổi, và đi vào trung thất sau.
Các mạch bạch huyết đi từ những hạch này đi lên trên dọc theo các khí quản để hợp nhất với các mạch bạch huyết tương tự từ các hạch cạnh ức và các hạch cánh tay-đầu, nằm trước tĩnh mạch cánh tay-đầu ở trung thất trên, để hình thành nên thân phế quản-trung thất phải và trái. Những thân này thoát dịch trực tiếp vào trong các tĩnh mạch sâu ở nền cổ hoặc có thể thoát dịch vào thân bạch huyết phải hay ống ngực.
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong các bài viết tiếp theo nhé !!!!